Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 20 tháng 04 năm 2024,
Nhớ lại và suy ngẫm
GS-TSKH Nguyễn Mại - 24/02/2015 09:01
 
() Đầu Xuân Ất Mùi, nhớ lại quá trình hình thành và hoàn thiện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 khi nước ta chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo kinh tế thị trường cách đây gần 30 năm, để suy ngẫm về việc đẩy nhanh tái cấu trúc nền kinh tế và hội nhập quốc tế nhằm gia tăng tốc độ tăng trưởng theo hướng hiệu quả và bền vững hơn.
TIN LIÊN QUAN
TIN LIÊN QUAN
Đổi mới để tiến lên theo con đường đã chọn
Hành trình Tổ quốc
Cải cách vì một đất nước Việt Nam thịnh vượng

1. Trước khi thực hiện chủ trương Đổi mới, vấn đề đặt ra đối với Việt Nam là lựa chọn “nên hay không” mở cửa để hội nhập kinh tế quốc tế. Trong điều kiện tồn tại “hai hệ thống thế giới: xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa” thì trong quan hệ với các quốc gia khác, nước ta về căn bản dựa trên quan điểm giai cấp, do đó hợp tác kinh tế, buôn bán, đầu tư chủ yếu với các nước xã hội chủ nghĩa, đồng Rúp được sử dụng trong thống kê thương mại quốc tế.

GS-TSKH Nguyễn Mại
GS-TSKH Nguyễn Mại

Thời gian đầu khi chuyển sang kinh tế thị trường, nước ta hội nhập kinh tế quốc tế là chủ yếu, hội nhập chính trị còn khá dè dặt cả về chủ trương cũng như hành động. Hiện nước ta đã hội nhập khá toàn diện với khu vực và thế giới, không những sâu rộng hơn về kinh tế, mà cả chính trị, an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, ở cấp Chính phủ, Quốc hội, tổ chức xã hội và công dân.

Năm 2015, hội nhập quốc tế của Việt Nam hướng đến mục tiêu bảo đảm lợi ích quốc gia khi tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và các hiệp định tự do thương mại, thu hút vốn đầu tư quốc tế và mở rộng thương mại với thị trường thế giới, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu như nghèo đói, biến đổi khí hậu, nạn khủng bố quốc tế.

Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986) đánh dấu bước ngoặt lịch sử bằng việc lựa chọn đúng định hướng phát triển đất nước theo xu thế chung của thời đại trên căn bản lợi ích dân tộc. Đọc lại các văn kiện của Đại hội VI, người ta có thể tìm thấy định hướng và nguyên tắc chung về việc chuyển sang kinh tế thị trường và mở cửa với thế giới, nhưng chưa đề ra được đường lối chính trị và kinh tế trong giai đoạn mới, mà những đại hội tiếp theo cho đến nay, khi Đảng ta đang chuẩn bị Đại hội XII, mới dần được hoàn chỉnh, bởi vì “chuyển toàn bộ sự nghiệp cách mạng theo đường lối đổi mới là một quá trình lâu dài. Chúng ta còn phải tiếp tục kiên trì suy nghĩ, tìm tòi, thử nghiệm, từng bước hình thành cái mới một cách tích cực và vững chắc” (Diễn văn khai mạc Đại hội VI của đồng chí Nguyễn Văn Linh). Do đó, một năm sau Đại hội VI, chỉ có một luật kinh tế do Quốc hội ban hành, đó là Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vào cuối năm 1987.

Thời gian từ khi hình thành chủ trương cho đến khi Quốc hội thông qua Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khoảng 9 tháng. Nếu xét đến sự hạn chế về trình độ, năng lực của các chuyên gia kinh tế và luật pháp tham gia soạn thảo, thì điều đó được đánh giá là thành quả đáng trân trọng so với thời gian gần 3 năm xây dựng Luật Đầu tư (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua tại phiên họp cuối năm 2014.

Xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là một trong 3 đột phá chiến lược nhằm đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020

2. Những ai đã từng tham gia và trải nghiệm trong thời kỳ thai nghén và hình thành chủ trương chuyển sang kinh tế thị trường, đều nhớ lại không khí dân chủ trong các cuộc hội thảo, tranh luận công khai đôi khi khá gay gắt để tìm ra chân lý nhằm có được quyết sách đúng đắn về đường lối chung, cũng như chủ trương và chính sách trên từng lĩnh vực hoạt động.

Thời điểm đó, trong nhiều trường hợp, các vị lãnh đạo cấp cao của đất nước cũng tham gia những cuộc tranh luận thật sự dân chủ, nhờ đó mà khai thác được trí tuệ của đội ngũ chuyên gia kinh tế và pháp lý, cũng như trí tuệ của một số chuyên gia Việt kiều đang công tác tại các tổ chức quốc tế như Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, của một số chuyên gia nước ngoài tìm đến Việt Nam - một quốc gia đang chuyển đổi mô hình tăng trưởng, một miền đất hứa với các nhà đầu tư quốc tế, để hỗ trợ Chính phủ nước ta hình thành hệ thống luật pháp mới, mà Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam là sự khởi đầu cho quá trình đó.

“Cái khó ló cái khôn”, khi người Việt Nam còn xa lạ với đầu tư trực tiếp nước ngoài, thậm chí đại bộ phận chuyên gia kinh tế và pháp lý không đủ trình độ giao tiếp bằng tiếng Anh thì đã tìm được phương thức có hiệu quả nhất là dịch ra tiếng Việt hàng chục luật đầu tư nước ngoài của nhiều nước trên thế giới để tham khảo, lựa chọn những nội dung tốt nhất và thích hợp với điều kiện Việt Nam; mời một số chuyên gia Việt kiều và nước ngoài tham gia quá trình soạn thảo văn bản luật; tổ chức nhiều cuộc hội thảo từng chương, từng điều luật. Đó là quá trình tự học hỏi, nâng cao trình độ của cán bộ lãnh đạo các ngành và chính quyền địa phương. Ở đây xuất hiện một nghịch lý. Trước đây khi trình độ chuyên gia Việt Nam còn hạn chế thì quá trình hình thành luật pháp có vẻ nhanh chóng hơn hiện nay. Bây giờ, khi đội ngũ chuyên gia Việt Nam đông đảo và trưởng thành, thì đôi khi một vấn đề được lặp đi lặp lại tại nhiều hội thảo, mà lẽ ra nếu được tổ chức tốt thì không mất quá nhiều thời gian tranh cãi để đi đến kết luận cuối cùng.

Trình tự xây dựng luật pháp thời kỳ đó cũng như hiện nay là phải có được sự đồng thuận của các bộ, ban đảng, trình Chính phủ rồi trình Quốc hội, nhưng thời gian nhanh hơn nhiều so với hiện nay. Có lẽ vì 2 nguyên nhân chính: một là đất nước cần có Luật Đầu tư nước ngoài làm cơ sở pháp lý để thu hút nguồn vốn quốc tế rất quan trọng đối với nước ta, cuộc sống thôi thúc các nhà làm luật phải “vừa chạy vừa xếp hàng”, không thể đủng đỉnh được; hai là cái mới khá lạ lẫm đối với nhiều người, kể cả những cán bộ cấp cao, nên cách tốt nhất là hình thành văn bản luật pháp rồi từ thực tiễn sẽ sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện dần.

Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 1987 có 6 chương, 42 điều, khá ngắn gọn, nhưng thể hiện minh bạch, nhất quán chủ trương tại Điều I: “Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, tuân thủ luật pháp Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi”; “Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân có đầu tư vào Việt Nam”.

So với luật đầu tư nước ngoài của một số nước trong khu vực thì Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam được dư luận quốc tế đánh giá là thông thoáng và hấp dẫn hơn. Ví dụ, Luật không hạn chế tỷ lệ vốn tối đa trong xí nghiệp liên doanh, chỉ hạn chế tỷ lệ vốn tối thiểu không dưới 30%, áp dụng hình thức 100% vốn nước ngoài, ưu đãi thuế khá cao và thu tiền thuê đất khá thấp, các thủ tục hành chính rất đơn giản.

Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 cũng có những nhược điểm, trong đó có vấn đề liên quan đến nhận thức và quan điểm như quy định tại điểm 2, Điều 2: “Các tư nhân Việt Nam có thể chung vốn với tổ chức Việt Nam thành bên Việt Nam…”; có nghĩa là không được tự hợp tác với bên nước ngoài; có vấn đề do chưa đạt được sự đồng thuận giữa các nhà hoạch định chính sách như quy định tại Điều 15: “Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không quá 20 năm. Trong trường hợp cần thiết thời hạn này có thể dài hơn”, bởi vì vào lúc đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chưa được coi là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế quốc dân.

Sau hai năm rưỡi thi hành, ngày 30/6/1990, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật này. Điểm 2, Điều 1 quy định: “Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều tổ chức kinh tế Việt Nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế”. Điểm 2 điều 3 quy định: “Các tổ chức kinh tế tư nhân Việt Nam được hợp tác kinh doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng bộ trưởng quy định”.

Kỳ họp Quốc hội cuối năm 1992, luật này lại được sửa đổi, bổ sung lần thứ hai. Luật mới thêm các hình thức và phương thức đầu tư mới như khu chế xuất, xí nghiệp chế xuất, hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT); mua lại để tăng dần tỷ trọng vốn góp của Bên Việt Nam hoặc mua lại từng phần trong một số xi nghiệp liên doanh quan trọng. Thời hạn hoạt động của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phổ biến là 50 năm, có thể đến 70 năm.

3. Câu chuyện Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được hình thành chỉ trong 9 tháng và hai lần sửa đổi trong vòng 5 năm đã cho thấy tầm quan trọng của luật này đối với Việt Nam. Trên thực tế, giai đoạn 1991- 1998 là thời kỳ hoàng kim trong lịch sử phát triển đất nước với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 8,5%, FDI đóng góp khoảng 30% tốc độ tăng trưởng kinh tế, 30% vốn đầu tư xã hội, 40% kim ngạch xuất khẩu, hình thành một số ngành công nghiệp quan trọng như khai thác dầu khí, ô tô, xe máy, điện tử, dịch vụ cao cấp.

Giai đoạn này cũng cho chúng ta bài học kinh nghiệm về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế bằng cách phát hiện nhanh chóng nhược điểm của các quy định hiện có, sửa đổi, bổ sung kịp thời để điều chỉnh mọi hành vi của hoạt động kinh tế.

Năm 2015 và những năm tiếp theo, mặc dù còn nhiều ẩn số, nhất là động thái mới về chính trị và an ninh rất khó lường trên chính trường quốc tế, cũng như biến động về kinh tế, giá cả thị trường như giá dầu, giá vàng và các vật tư, hàng hóa có liên quan đến thương mại và đầu tư của nước ta, nhưng đã xuất hiện những tín hiệu tích cực từ nửa cuối năm 2014.

Cụ thể, khôi phục tốc độ tăng trưởng, lạm phát được kiềm chế ở mức khá hợp lý, sản xuất công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao hơn, có nhiều mô hình canh tác, quản trị hiệu quả trong nông nghiệp và quan trọng hơn là môi trường đầu tư và kinh doanh của nước ta đã tạo được lòng tin với người dân, doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Do vậy, có thể hy vọng vào thời kỳ gia tăng tốc độ tăng trưởng và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội theo hướng phát triển bền vững.

Trong đó, làn sóng thứ ba về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được bắt đầu từ năm 2014 với những tín hiệu mới: thu hút được những tập đoàn kinh tế, công nghệ cao hàng đầu thế giới, triển khai nhiều dự án quy mô hành tỷ, hàng chục tỷ USD, thành lập một số trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), nước ta đã và đang trở thành cứ điểm sản xuất của thế giới một số sản phẩm như điện thoại di động, máy tính bảng, điện tử tiêu dùng.

Quốc hội trong phiên họp cuối năm 2014 đã thông qua Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), điều chỉnh, bổ sung một số quy định của nhiều luật thuế. Có thể khẳng định, tuy còn có những điều chưa được như mong đợi của doanh nghiệp và nhà đầu tư, nhưng về cơ bản, những luật sửa đổi lần này đã tiếp cận chuẩn mực quốc tế, hình thành hành lang pháp lý thông thoáng, minh bạch, nhất quán, tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh tốt hơn, do đó thúc đẩy nhanh hơn làn sóng đầu tư trực tiếp nước ngoài mới tại Việt Nam.

Vấn đề cần quan tâm nhất là làm gì để làn sóng này lan tỏa rộng hơn và có hiệu quả hơn đối với sự phục hồi và phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp để biến cái hiện thuộc sở hữu của người nước ngoài là vốn, công nghệ, nhân lực trình độ cao trở thành của doanh nghiệp Việt Nam, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đến năm 2020 có khoảng 1 triệu doanh nghiệp dân tộc, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư