Thứ Tư, Ngày 17 tháng 09 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 17/9: Phát hiện ung thư phổi từ triệu chứng không ngờ
D.Ngân - 17/09/2025 09:13
 
Theo số liệu từ Globocan năm 2022, Việt Nam ghi nhận hơn 24.400 ca mắc mới và hơn 22.500 ca tử vong vì ung thư phổi.

Phát hiện ung thư phổi từ triệu trứng không ngờ

Ông Đạt, 65 tuổi, ngụ tại TP.HCM, bắt đầu có cảm giác tê râm ran ở các ngón tay trái từ tháng 10/2023. Chỉ sau một tháng, các ngón tay của ông chuyển sang tím tái, sưng đau và mất hẳn cảm giác. Gia đình đưa ông đến khám viện.

Nếu được chẩn đoán sớm và điều trị đúng phác đồ, tỷ lệ sống sau 5 năm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có thể đạt tới 80-90%. 

Qua thăm khám và làm các xét nghiệm hình ảnh, bác sỹ phát hiện ông bị tắc hoàn toàn động mạch quay trái, kèm theo hẹp nặng và có huyết khối bán phần đoạn gần của động mạch dưới đòn trái.

Bệnh nhân được can thiệp nong và đặt stent mạch máu để tái thông dòng chảy. Tuy nhiên, trong quá trình khảo sát mạch máu chi trên bằng chụp CT, bác sỹ tình cờ phát hiện tổn thương tại phổi nên chuyển ông sang chuyên khoa Ung bướu để đánh giá chuyên sâu.

Bác sỹ CKII Trần Thị Thiên Hương, Khoa Ung Bướu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM cho biết, hình ảnh chụp CT ngực cho thấy ông Đạt có một khối u nằm ở thùy trên phổi trái, xâm lấn vào rốn phổi, gây tắc nghẽn một số nhánh phế quản. Hai phổi xuất hiện nhiều nốt tổn thương, trung thất có hạch rải rác và tràn dịch ngoài màng tim.

Chụp CT bụng cho thấy thêm các hạch bất thường vùng rốn gan và quanh tụy. Bệnh nhân được chỉ định sinh thiết xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của CT để xác định bản chất khối u. Kết quả giải phẫu bệnh xác nhận ông mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn 4, đã di căn đến phổi còn lại, xương và hệ thống hạch ổ bụng.

Theo bác sỹ Hương, các cục máu đông là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân ung thư giai đoạn muộn. Khối u có thể tạo ra các yếu tố thúc đẩy hình thành huyết khối trong động mạch và tĩnh mạch, gây tắc mạch, dẫn đến tình trạng sưng tím, mất cảm giác như ở đầu ngón tay của ông Đạt.

Nếu các cục máu đông di chuyển đến phổi, chúng có thể gây thuyên tắc phổi - một biến chứng đe dọa tính mạng. Trong trường hợp đi đến não, chúng có thể gây đột quỵ; nếu đến tim, có thể gây nhồi máu cơ tim.

Sau khi xác định tình trạng bệnh, ông Đạt được chỉ định điều trị bằng hóa trị kết hợp thuốc miễn dịch. Phác đồ này vừa có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ác tính, vừa giúp kích hoạt hệ miễn dịch nhận biết và tiêu diệt tế bào ung thư.

Tuy nhiên, hóa trị và thuốc miễn dịch cũng có thể làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối. Vì vậy, trong quá trình điều trị ung thư, ông Đạt đồng thời được điều trị chuyên khoa tim mạch, sử dụng thuốc kháng đông để phòng ngừa biến chứng tại Bệnh viện Tâm Anh.

Sau hơn 18 tháng điều trị, tình trạng sức khỏe của ông Đạt hiện ổn định. Các triệu chứng ban đầu đã được cải thiện, khối u không tiến triển thêm, và người bệnh được chuyển sang giai đoạn hóa trị duy trì. Ông hiện tái khám định kỳ theo lịch và tiếp tục điều trị theo phác đồ.

Ung thư phổi hiện là nguyên nhân tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, đây cũng là một trong ba loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất ở cả nam và nữ, chỉ sau ung thư gan và ung thư dạ dày.

Theo số liệu từ Globocan năm 2022, Việt Nam ghi nhận hơn 24.400 ca mắc mới và hơn 22.500 ca tử vong vì ung thư phổi. Điều đáng lo ngại là phần lớn bệnh nhân chỉ phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn muộn, di căn, làm giảm hiệu quả điều trị và rút ngắn thời gian sống thêm.

Bác sỹ Hương cho biết, nếu được chẩn đoán sớm và điều trị đúng phác đồ, tỷ lệ sống sau 5 năm ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có thể đạt tới 80-90%. Ngược lại, ở giai đoạn di căn, tỷ lệ sống chỉ còn dưới 10%. Tuy nhiên, ung thư phổi thường tiến triển âm thầm, không có triệu chứng rõ rệt ở giai đoạn đầu, dễ bị nhầm lẫn với các bệnh lý hô hấp thông thường.

Hiện nay, việc tầm soát ung thư phổi bằng chụp CT ngực liều thấp (Low-dose CT scan) được khuyến cáo cho nhóm nguy cơ cao, gồm người trên 50 tuổi, người hút thuốc lá lâu năm, người có tiền sử tiếp xúc với chất độc hại như amiante, khí công nghiệp hoặc có tiền sử gia đình mắc ung thư phổi.

Tầm soát định kỳ mỗi năm một lần giúp phát hiện sớm tổn thương và tăng cơ hội điều trị khỏi bệnh. Số lần tầm soát có thể được điều chỉnh theo chỉ định cá nhân hóa của bác sỹ.

Với những bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư phổi và đang điều trị, bác sỹ khuyến cáo cần tuân thủ tái khám đúng lịch, đồng thời lưu ý các triệu chứng bất thường như chóng mặt, đau đầu, nhìn mờ, tê yếu tay chân, mệt mỏi, đau ngực... Những biểu hiện này có thể là dấu hiệu của biến chứng huyết khối hoặc di căn, cần được đánh giá và xử trí sớm để đảm bảo hiệu quả điều trị lâu dài và chất lượng sống cho người bệnh.

Ứng dụng robot phẫu thuật khối u sau phúc mạc sát mạch máu lớn

Bệnh nhân là bà Tân (TP.HCM), phát hiện có khối u khi đi khám sức khỏe định kỳ. Kết quả kiểm tra cho thấy một khối u kích thước 6 cm nằm sâu trong ổ bụng, sau phúc mạc, sát tĩnh mạch chủ bụng và gần cột sống.

Ths.Nguyễn Tân Cương, Phó khoa Tiết niệu, Trung tâm Tiết niệu - Thận học - Nam khoa, người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân cho biết, khối u có vị trí rất phức tạp, nằm ngay phía trước cơ thắt lưng chậu, nghi ngờ là u bao sợi thần kinh (schwannoma). Dù khối u có kích thước lớn nhưng không gây đau hay biểu hiện triệu chứng, bệnh nhân hoàn toàn sinh hoạt bình thường và chỉ tình cờ phát hiện qua siêu âm định kỳ.

U sau phúc mạc có thể là lành tính hoặc ác tính, xuất phát từ nhiều loại mô như mỡ, cơ, thần kinh, mạch máu... Do vị trí sâu trong ổ bụng, u thường phát triển âm thầm và chỉ được phát hiện khi đã lớn, gây các triệu chứng mơ hồ như đau âm ỉ, đầy tức bụng, rối loạn tiêu hóa, sờ thấy khối bất thường hoặc sụt cân không rõ nguyên nhân.

Theo bác sỹ Cương, khoảng 30% các khối u sau phúc mạc là lành tính, có vỏ bao rõ, thường được phát hiện tình cờ khi kiểm tra sức khỏe.

Tuy nhiên, các khối u ác tính thường chỉ được phát hiện ở giai đoạn muộn, khi đã phát triển lớn, xâm lấn cơ quan xung quanh, dính sát mạch máu lớn, khiến việc phẫu thuật trở nên phức tạp. Nếu không can thiệp kịp thời, khối u có thể gây chèn ép mạch máu, thần kinh và ảnh hưởng đến chức năng các cơ quan lân cận.

Trong trường hợp của bà Tân, do khối u nằm sát tĩnh mạch chủ - một trong những mạch máu lớn và quan trọng nhất trong cơ thể nên ê-kíp bác sỹ quyết định thực hiện phẫu thuật nội soi với sự hỗ trợ của hệ thống robot hiện đại Da Vinci Xi.

Nhờ khả năng phẫu tích chính xác và linh hoạt, robot giúp bác sỹ bóc tách hoàn toàn khối u ra khỏi các cấu trúc mạch máu mà không gây chảy máu, giảm thiểu rủi ro và giúp người bệnh hồi phục nhanh chóng. Sau mổ, bà Tân tỉnh táo, có thể ăn uống và đi lại trong vòng 24 giờ, và xuất viện chỉ sau ba ngày. Kết quả xét nghiệm mô bệnh học cho thấy khối u là u bao sợi thần kinh lành tính.

Theo bác sỹ Cương, việc điều trị u sau phúc mạc phụ thuộc vào tính chất khối u (lành hay ác tính), kích thước, vị trí, mức độ xâm lấn và thể trạng người bệnh. Với u lành tính, có thể theo dõi định kỳ nếu khối u nhỏ và không triệu chứng, hoặc phẫu thuật nếu u phát triển lớn hoặc có nguy cơ chèn ép.

Trong khi đó, u ác tính đòi hỏi phải cắt bỏ triệt để, đôi khi cần kết hợp thêm hóa trị hoặc xạ trị sau mổ để giảm nguy cơ tái phát. Dù là u lành hay ác, bác sỹ khuyến cáo người dân nên khám sức khỏe định kỳ để phát hiện bệnh sớm, từ đó có hướng xử lý kịp thời. Sau phẫu thuật, người bệnh cũng cần tuân thủ lịch tái khám đều đặn để theo dõi diễn tiến và phòng ngừa biến chứng hoặc tái phát.

Ung thư dạ dày sớm được điều trị triệt để nhờ kỹ thuật ESD

Bệnh nhân là anh Trí, 40 tuổi, thường xuyên cảm thấy đau bụng râm ran và khó chịu sau khi ăn. Nhận thấy các dấu hiệu bất thường, anh đến khám tại viện. Qua nội soi dạ dày không đau (gây mê), bác sỹ phát hiện anh Trí bị nhiễm vi khuẩn HP, viêm teo niêm mạc dạ dày và chuyển sản ruột tại hang vị, góc bờ cong nhỏ. Đặc biệt, hình ảnh nội soi cho thấy một vùng niêm mạc bất thường nhỏ, nghi ngờ ung thư sớm.

Tiến sỹ, bác sỹ Trần Thanh Bình, người điều trị cho bệnh nhân cho biết, kết quả sinh thiết xác nhận bệnh nhân mắc ung thư biểu mô tuyến dạ dày giai đoạn sớm, chưa xâm nhập sâu vào lớp dưới niêm, mức độ biệt hóa vừa và chưa có nguy cơ di căn hạch. Đây là một trường hợp điển hình của phát hiện sớm nhờ công nghệ nội soi hiện đại.

Thiết bị nội soi tích hợp chế độ nhuộm màu điện tử và khả năng phóng đại tới 150 lần đã giúp hiển thị rõ cấu trúc vi mạch, hình thái niêm mạc và tổn thương bất thường, hỗ trợ bác sỹ xác định chính xác tổn thương ngay khi chưa có dấu hiệu lâm sàng rõ rệt.

Với tổn thương kích thước nhỏ hơn 2 cm và chưa xâm lấn sâu, anh Trí được chỉ định thực hiện kỹ thuật ESD, nội soi cắt tách dưới niêm mạc qua đường miệng. Đây là phương pháp can thiệp tối thiểu, không cần rạch bụng hay cắt bỏ dạ dày, giúp bảo tồn tối đa chức năng tiêu hóa cho người bệnh.

Trong quá trình thực hiện, bác sỹ đưa ống nội soi mềm có gắn camera và các dụng cụ chuyên biệt vào dạ dày qua đường miệng. Sau đó dùng dao điện đánh dấu xung quanh ranh giới tổn thương, tạo một đường cắt tròn vào lớp niêm mạc, mở lối tiếp cận lớp dưới niêm để bóc tách trọn vẹn khối ung thư ra khỏi lớp cơ bên dưới.

Toàn bộ khối tổn thương sau đó được đưa đi xét nghiệm mô bệnh học. Kết quả xác nhận ung thư biểu mô tuyến biệt hóa vừa, xâm lấn đến lớp đệm của niêm mạc nhưng chưa xâm lấn lớp cơ niêm, không thấy tế bào ung thư tại diện cắt, không có xâm nhập mạch máu hay thần kinh.

Điều này đồng nghĩa với việc khối u đã được loại bỏ hoàn toàn, không cần phẫu thuật bổ sung hay hóa trị, xạ trị sau đó. Người bệnh chỉ cần theo dõi định kỳ theo chỉ định của bác sỹ.

Tiến sỹ Trần Thanh Bình nhấn mạnh, ESD là một kỹ thuật nội soi chuyên sâu đòi hỏi độ chính xác và kinh nghiệm cao, nhưng mang lại nhiều lợi ích vượt trội cho người bệnh tránh được phẫu thuật lớn, giảm đau, ít biến chứng, tiết kiệm chi phí và rút ngắn thời gian nằm viện.

Nếu không được phát hiện ở giai đoạn sớm, bệnh nhân ung thư dạ dày thường phải phẫu thuật cắt dạ dày một phần hoặc toàn phần, kèm theo hóa trị, xạ trị, gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống, tiên lượng sống cũng kém hơn.

Ung thư dạ dày là một trong những loại ung thư đường tiêu hóa phổ biến và nguy hiểm nhất, chỉ đứng sau ung thư gan và ung thư phổi về tỷ lệ tử vong tại Việt Nam. Đáng lo ngại, bệnh đang có xu hướng trẻ hóa, trong khi phần lớn trường hợp chỉ được phát hiện ở giai đoạn tiến triển khi tế bào ung thư đã xâm lấn sâu hoặc di căn xa.

Theo thống kê, có tới 60-70% bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn. Trong khi đó, nếu phát hiện sớm, tỷ lệ sống sau 5 năm có thể lên tới 90%. Ngược lại, ở giai đoạn IV, khi ung thư đã lan đến gan, phổi hoặc các cơ quan khác, tỷ lệ sống sau 5 năm chỉ còn dưới 5%.

Điều khiến ung thư dạ dày trở nên đặc biệt nguy hiểm là nó tiến triển âm thầm, không gây triệu chứng rõ ràng ở giai đoạn đầu, dễ bị nhầm lẫn với các rối loạn tiêu hóa thông thường. Chính vì vậy, nội soi dạ dày định kỳ được xem là phương pháp hiệu quả nhất để tầm soát ung thư, phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư giai đoạn đầu.

Hiện nay, các thế hệ máy nội soi hiện đại như Olympus Evis X1 CV1500, Fujifilm 7000 được trang bị công nghệ nhuộm màu điện tử và phóng đại hình ảnh độ phân giải cao đã trở thành "trợ thủ" đắc lực cho bác sỹ trong việc phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư hoặc ung thư rất nhỏ. Khi có nghi ngờ, bác sỹ có thể sinh thiết tại chỗ để xác định bản chất tổn thương, từ đó đưa ra hướng xử trí phù hợp và kịp thời.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư