Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Sáu, Ngày 19 tháng 04 năm 2024,
Từ kinh nghiệm Sabeco, Vinamilk, sẽ có thêm nhiều vụ thoái vốn thành công
Mạnh Bôn - 22/08/2018 08:23
 
Nhà nước đang sở hữu nhiều triệu tỷ đồng trong các doanh nghiệp có vốn góp nhà nước. Tuyệt đại đa số vốn nhà nước tại doanh nghiệp sẽ được thoái trong thời gian tới. Qua thương vụ thoái vốn thành công tại Sabeco, Vinamilk…, ông Đặng Quyết Tiến, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) hy vọng, sẽ có thêm nhiều vụ thoái vốn, cổ phần hóa thành công.
TIN LIÊN QUAN

Thưa ông, với 571 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ phần hóa trong giai đoạn 2011 - 2016, có thể nói, tiến trình cổ phần hóa đã đạt được những thành quả nhất định?

Quá trình cổ phần hóa thời gian qua đã ghi nhận nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và nhiều doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, có ngành nghề kinh doanh quan trọng được cổ phần hóa. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư có tiềm lực, nhà đầu tư chiến lược khi cổ phần hóa và sau khi chuyển thành công ty cổ phần đã được chú trọng. Công tác quản trị, điều hành, quản lý thông tin và rủi ro của các doanh nghiệp sau khi bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược đã có những tiến bộ đáng kể. Công tác cổ phần hóa, thoái vốn đã có tác động tích cực tới sự phát triển của thị trường chứng khoán. Quyền lợi chính đáng của người lao động được bảo đảm.

Công tác kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, trọng tâm là khâu xác định giá trị doanh nghiệp, cần được tăng cường để tránh thất thoát vốn nhà nước
Công tác kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, trọng tâm là khâu xác định giá trị doanh nghiệp, cần được tăng cường để tránh thất thoát vốn nhà nước

Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện được mục tiêu đa dạng hóa sở hữu tại doanh nghiệp, từ loại hình doanh nghiệp có một chủ sở hữu, nay có nhiều chủ sở hữu bao gồm Nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp, cổ đông ngoài doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Nhờ đó, đã huy động được nguồn vốn xã hội đầu tư vào doanh nghiệp để phát triển sản xuất, kinh doanh, đồng thời góp phần quan trọng trong việc thay đổi phương thức quản trị, tạo ra động lực để phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Hoạt động của doanh nghiệp sau cổ phần hóa mang tính chất công khai, minh bạch, rõ ràng hơn.

Có thể nói, thành công lớn nhất là, sau chuyển thành công ty cổ phần, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước?

Tổng hợp kết quả hoạt động của 350 doanh nghiệp sau cổ phần hóa cho thấy, so với năm trước khi cổ phần hóa, bình quân lợi nhuận trước thuế tăng 49%, nộp ngân sách tăng 27%, vốn điều lệ tăng 72%, tổng tài sản tăng 39%, doanh thu tăng 29%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 33%.

Sự ra đời các công ty cổ phần qua cổ phần hóa tiếp tục làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tế, thúc đẩy thị trường chứng khoán, thị trường tài chính phát triển. Thông qua cổ phần hóa, Nhà nước có thêm nguồn thu cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; doanh nghiệp có điều kiện để huy động các nguồn lực đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; người lao động được quan tâm, bảo đảm quyền lợi, việc làm; nhà đầu tư có thêm cơ hội đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, qua đó phân bổ hợp lý và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực của Nhà nước.

.
.

Sau cổ phần hóa, các doanh nghiệp áp dụng mô hình quản trị của công ty cổ phần theo pháp luật về doanh nghiệp, từng bước áp dụng các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp hiện đại theo thông lệ kinh tế thị trường, phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Mô hình quản trị công ty được tổ chức chặt chẽ hơn, với nhiều hệ thống quy định, nguyên tắc, quy chế, nhằm bảo đảm vận hành hoạt động doanh nghiệp có hiệu quả, cũng như thiết lập cơ chế kiểm soát quyền lực thông qua kiểm tra, giám sát của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp, nhờ đó hạn chế được việc lạm quyền của người điều hành doanh nghiệp. Mô hình quản trị mới của doanh nghiệp cũng bảo đảm tính dân chủ, quyền lợi của các cổ đông, nhất là các cổ đông nhỏ là người lao động trong công ty thông qua hệ thống quy định rất chặt chẽ.

Những biến động, thay đổi, chính sách, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, báo cáo tài chính, chuyển nhượng cổ phần, giao dịch giữa những người có liên quan, nghị quyết của hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông... đều được đăng thông báo công khai trên trang thông tin điện tử của doanh nghiệp sau 24 giờ, đồng thời báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam (nếu đã trở thành công ty đại chúng).

Tuy nhiên, Nhà nước vẫn nắm giữ trên 81% vốn trong các công ty cổ phần chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước, nên có thể nói, chất lượng cổ phần hóa chưa đạt yêu cầu, đặc biệt là việc Nhà nước giữ tới trên 90% vốn điều lệ tại 15 tập đoàn, tổng công ty đã cổ phần hóa. Vì sao các tập đoàn, tổng công ty không bán hết cổ phần theo phương án cổ phần hóa đã được phê duyệt?

Các doanh nghiệp cổ phần hóa khi thực hiện bán cổ phần lần đầu đều chào bán số lượng cổ phần theo đúng phương án cổ phần hóa được phê duyệt, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng bán hết được số cổ phần chào bán. Nguyên nhân là nhận thức và tầm nhìn của không ít cấp ủy, chính quyền và doanh nghiệp nhà nước về sắp xếp, đổi mới, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước chưa đầy đủ, có nơi còn bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ và tư duy nhiệm kỳ.

Một số cán bộ quản lý vì e ngại không còn vị trí lãnh đạo, quản lý đối với doanh nghiệp sau cổ phần hóa, nên đã đề nghị Nhà nước tiếp tục nắm giữ tỷ lệ chi phối vốn khi cổ phần hóa. Các doanh nghiệp cổ phần hóa mà tỷ lệ chào bán ra bên ngoài dưới mức chi phối (<50%) chưa thực sự thu hút nhà đầu tư, đặc biệt đối với các nhà đầu tư muốn dành quyền chi phối doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Ngoài ra, chất lượng tổ chức tư vấn trong quá trình cổ phần hóa còn hạn chế, chưa gắn trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của cá nhân, tổ chức tư vấn trong việc cung cấp dịch vụ, nên giá khởi điểm còn cao, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư.

.
.

Việc thu hút nhà đầu tư chiến lược trong nước cũng như nước ngoài tham gia mua cổ phần còn hạn chế do một số quy định được đánh giá là chưa đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư chiến lược, do nhà đầu tư chiến lược có nghĩa vụ phải cung cấp nhiều nguồn lực theo cam kết, nhưng lại hạn chế không được bán cổ phiếu trong vòng 5 năm, chưa quy định cụ thể chế tài xử lý các nhà đầu tư chiến lược không thực hiện đúng cam kết.

Bên cạnh đó, chưa quy định cụ thể đối tượng doanh nghiệp cổ phần hóa nào cần lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, nên có tâm lý doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ dưới mức chi phối sau cổ phần hóa cũng lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, làm giảm tỷ lệ cổ phần bán đấu giá công khai ra công chúng.

Chính sách bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa còn chưa thực sự thu hút được người lao động; có trường hợp người lao động bỏ quyền được mua ưu đãi cổ phần ở một số doanh nghiệp. Một bộ phận người lao động sau khi mua cổ phần được ưu đãi đã bán lại cổ phần hoặc quyền mua cổ phần ưu đãi cho các nhà đầu tư khác ở trong hoặc ngoài doanh nghiệp để hưởng chênh lệch, khiến mục tiêu gắn bó người lao động với doanh nghiệp không đạt được như mong đợi. Chính sách bán cổ phần cho tổ chức công đoàn khó triển khai do tổ chức công đoàn không có khả năng tài chính.

Với các doanh nghiệp chưa bán hết cổ phần theo phương án đã được phê duyệt, phải tiếp tục thoái vốn nhà nước sau khi chuyển thành công ty cổ phần. Thưa ông, vì sao công tác thoái vốn chưa đạt yêu cầu, bảo đảm Nhà nước chỉ nắm giữ tối thiểu vốn tại doanh nghiệp theo đúng tinh thần của Quyết định 37/2014/QĐ-TTg?

Quá trình triển khai công tác thoái vốn nhà nước đạt được một số kết quả nhất định. Những doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động trong những lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ đã tích cực được chuyển đổi, sắp xếp sở hữu theo hướng cổ phần hóa.

Trong giai đoạn 2011 - 2015, cả nước đã thoái vốn nhà nước 26.222 tỷ đồng, thu về 36.537 tỷ đồng (bằng 1,4 lần so với giá trị sổ sách). Qua 11 năm triển khai bán vốn nhà nước, công tác bán vốn của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) từng bước được chuẩn hóa và mang tính chuyên nghiệp, đến ngày 30/9/2017, kết quả bán vốn thu được gấp 3,4 lần giá vốn.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Bộ Tài chính, công tác thoái vốn vẫn chưa đạt yêu cầu, do trước đây, các doanh nghiệp nhà nước đã góp vốn hoặc đầu tư vào lĩnh vực bất động sản, góp vốn, mua cổ phần tại ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán, thành lập công ty tài chính.

Theo cơ chế quản lý do Nhà nước ban hành giai đoạn 2011 - 2016, doanh nghiệp nhà nước phải thoái vốn trong các lĩnh vực trên. Tuy nhiên, đến những năm đầu của giai đoạn (2011-2013), doanh nghiệp nhà nước vẫn còn dàn trải trong nhiều ngành, lĩnh vực mà Nhà nước không cần nắm giữ. Còn nhiều doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ có quy mô nhỏ.

Doanh nghiệp được kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực là chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhưng việc đầu tư vốn ra ngoài của doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải, đầu tư vào lĩnh vực có rủi ro cao, kém hiệu quả. Trong khi đó, hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh nhiều khó khăn, kinh tế thế giới phục hồi chậm sau suy thoái, lãi suất ngân hàng tăng cao, nên khó để triển khai công tác thoái vốn đúng theo kế hoạch.

Một số cơ chế, chính sách về đổi mới tổ chức, quản lý hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và sắp xếp, tái cơ cấu, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp ban hành chậm so với kế hoạch đề ra. Việc quản lý sử dụng đất đai của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hóa chưa chặt chẽ, còn  bất cập.

Doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại, cổ phần hóa chưa có sự đổi mới thực chất về quản trị kinh doanh. Chế độ công khai thông tin chưa được thực hiện đồng đều, nghiêm túc, thông tin tài chính có độ minh bạch chưa cao, tập trung ở những doanh nghiệp chưa đăng ký giao dịch và niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Trong giai đoạn 2017 - 2020, tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn phải đẩy mạnh hơn nữa theo đúng yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ trong Quyết định 1232/QĐ-TTg, Quyết định 58/2016/QĐ-TTg và Chỉ thị 991/TTg-ĐMDN. Để thực hiện được mục tiêu cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn này, cần tiếp tục phải xử lý những vướng mắc gì?

Để thực hiện mục tiêu cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn tới, theo Bộ Tài chính, cần thực hiện nghiêm quy định tại Nghị định số 126/2017/NĐ-CP; Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 (được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018) và Nghị định số 167/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 quy định việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công, theo đó:

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình cổ phần hóa, trọng tâm là khâu xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá trị quyền sử dụng đất đầy đủ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa, thúc đẩy việc nâng cao trách nhiệm và chất lượng của tư vấn độc lập, thực hiện kiểm toán nhà nước trước khi cơ quan có thẩm quyền công bố giá trị doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa có giá trị từ 1.800 tỷ đồng trở lên.

Việc xử lý những vướng mắc về vấn đề đất đai thì sao, thưa ông?

Về xử lý đất đai và xác định giá trị quyền sử dụng đất khi cổ phần hoá, doanh nghiệp phải hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý phương án sử dụng đất trước khi cổ phần hóa, việc này đã khắc phục bất cập khi doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần mới có ý kiến của địa phương về phương án sử dụng đất.

Cụ thể, các doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa có trách nhiệm rà soát toàn bộ diện tích đất đang quản lý, sử dụng để lập phương án sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai và pháp luật về sắp xếp lại, xử lý nhà đất thuộc sở hữu nhà nước và trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, phê duyệt trước thời điểm quyết định cổ phần hoá.

Phương án sử dụng đất của toàn bộ diện tích đất doanh nghiệp cổ phần hóa đang quản lý, sử dụng phải bảo đảm phù hợp với quy định về sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng tại địa phương; phù hợp với chiến lược phát triển doanh nghiệp.

Đối với những diện tích đất được giao để sử dụng vào mục đích xây dựng nhà để bán và xây dựng kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê theo phương án sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp và thực hiện nộp ngân sách nhà nước. Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa là giá đất cụ thể tại vị trí doanh nghiệp có diện tích đất được giao do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích đất được giao) quyết định theo quy định tại khoản 3 và điểm d khoản 4 Điều 114 của Luật Đất đai.

Đối với diện tích đất còn lại (sau khi loại trừ diện tích đất nêu trên), theo phương án sử dụng đất của doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, doanh nghiệp thực hiện hình thức thuê đất có thời hạn theo quy định của pháp luật về đất đai và trả tiền thuê đất hàng năm theo giá đất cụ thể tại vị trí doanh nghiệp có diện tích đất được thuê do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (nơi doanh nghiệp có diện tích đất được thuê) quyết định theo quy định tại khoản 3 và điểm d, khoản 4, Điều 114 của Luật Đất đai.

Số tiền doanh nghiệp đã nộp hoặc đã trả khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giao đất, thuê đất chưa hạch toán vào kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh tính đến thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp sẽ được xác định là số tiền doanh nghiệp đã trả trước tiền thuê đất cho một khoảng thời gian nhất định theo giá đất cụ thể hàng năm theo quy định tại thời điểm doanh nghiệp hoàn tất thủ tục thuê đất với cơ quan quản lý đất đai tại địa phương.

Trong thời gian 60 ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cổ phần lần đầu, doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm thực hiện các thủ tục để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật đất đai.

Công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước phải thực hiện quản lý và sử dụng đất của doanh nghiệp theo đúng mục đích, đúng phương án sử dụng của toàn bộ diện tích đất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về đất đai.

Danh mục doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn và giữ cổ phần chi phối (trên 50% đến 65% và trên 65%) giai đoạn 2017 - 2020 đã thu hẹp đáng kể so với giai đoạn trước. Thưa ông, nhiều ý kiến cho rằng, cần tiếp tục rà soát Quyết định 58/2016/QĐ-TTg (về tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước) để thu hẹp lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn và giữ cổ phần chi phối nhằm đẩy mạnh thoái vốn, cổ phần hóa?

Việc tiếp tục rà soát các lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn và cổ phần chi phối là công việc thường xuyên, liên tục để đảm bảo thúc đẩy phát triển kinh tế, trong đó kinh tế ngoài nhà nước đóng vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay, đồng thời vẫn phải bảo đảm an ninh, quốc phòng, an sinh xã hội, phát triển kinh tế vùng sâu, vùng xa, hải đảo…

Có thể nói, thoái vốn tại Sabeco và Vinamilk rất thành công. Qua 2 thương vụ này, chúng ta rút ra kinh nghiệm gì để tiếp tục huy động vốn của các nhà đầu tư chiến lược, của nhà đầu tư quốc tế khi thực hiện các thương vụ thoái vốn lớn khác, như tiếp tục thoái vốn tại Vinamilk, MobiFone, Vinaphone… và các tập đoàn, tổng công ty mà Nhà nước không cần phải giữ cổ phần chi phối?

Sẽ có thêm nhiều vụ thoái vốn, cổ phần hóa thành công từ kinh nghiệm của 2 thương vụ thoái vốn Sabeco và Vinamilk. Thứ nhất, phải tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch thông tin, đặc biệt thông tin tài chính, hiệu quả sản xuất - kinh doanh và cả các tồn tại về tài chính, công nợ; tôn trọng và đồng hành cùng các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư tìm hiểu thông tin, kịp thời giải đáp các yêu cầu của các nhà đầu tư.

Thứ hai, sự phối hợp và giảm thiểu thời gian xử lý của các bộ, ngành và cơ quan đại diện chủ sở hữu, cụ thể là sự vào cuộc, phối hợp của nhiều bộ, ngành như cơ quan chủ quản, đại diện chủ sở hữu vốn (Bộ Công thương, SCIC); phối hợp, tổ chức nhiều buổi giới thiệu trực tiếp đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước (Bộ Ngoại giao, Cục Xúc tiến thương mại), việc cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, minh bạch của cơ quan báo chí, Bộ Thông tin và Truyền thông và sự tham gia của nhiều cơ quan, ban, ngành khác.

Thứ ba, các thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời của các cơ quan, báo chí cho công luận, các nhà đầu tư trong, ngoài nước trước, trong và sau thương vụ.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư