Thứ Tư, Ngày 11 tháng 06 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 10/6: Tiến bộ y học Việt Nam trong điều trị ung thư
D.Ngân - 10/06/2025 11:37
 
Điều trị ung thư tại Việt Nam những năm gần đây có nhiều bước tiến rõ rệt. Các bệnh viện lớn đã làm chủ nhiều kỹ thuật hiện đại như phẫu thuật nội soi, phẫu thuật robot, can thiệp xâm lấn tối thiểu, đồng thời có đầy đủ các loại thuốc nhắm trúng đích, thuốc miễn dịch thế hệ mới, với phác đồ điều trị thường xuyên được cập nhật theo tiêu chuẩn quốc tế.

Tiến bộ y học giúp Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trong điều trị ung thư

 Bà Q., 50 tuổi, được chẩn đoán ung thư dạ dày giai đoạn muộn với tình trạng di căn phúc mạc, phổi và buồng trứng. Cuối năm 2024, bà có biểu hiện đau bụng dữ dội, nôn nhiều, sụt 10 kg. Khi đến khám tại viện, bác sỹ đề xuất phác đồ điều trị gồm hóa trị kết hợp thuốc miễn dịch và đặt stent tá tràng để cải thiện tiêu hóa và khả năng ăn uống.

Tuy nhiên, bà Q. quyết định sang Mỹ kiểm tra lại. Sau khi đánh giá hồ sơ bệnh án và phác đồ điều trị tại Việt Nam, bác sỹ tại Mỹ khuyên bà nên về nước chữa trị vì thuốc men, phác đồ và chất lượng dịch vụ y tế tại Việt Nam hoàn toàn tương đương.

Bà Q. sau đó quay lại Tâm Anh để tiếp tục điều trị. Sau ba đợt truyền hóa chất kết hợp thuốc miễn dịch và đặt stent, bà giảm đáng kể triệu chứng đau bụng, buồn nôn, ăn uống tốt hơn và nuốt được thức ăn mềm.

Chụp CT cho thấy khối u đã được kiểm soát, giảm kích thước và không có tổn thương mới. ThS.BS Trần Ngọc Hải, khoa Ung bướu, hỗ trợ gửi hình ảnh, kết quả xét nghiệm sang Mỹ để các bác sỹ nước ngoài tiếp tục theo dõi và đánh giá, giúp bà yên tâm hơn trong quá trình điều trị tại Việt Nam.

Một trường hợp tương tự là ông Đ., 58 tuổi, bị ung thư đại trực tràng di căn gan. Ông được phẫu thuật tại Việt Nam, sau đó sang Singapore để hóa trị 6 đợt. Tuy nhiên, do chi phí điều trị quá cao và việc đi lại bất tiện, ông quyết định trở về tiếp tục điều trị tại Bệnh viện Tâm Anh Hà Nội.

Từ hồ sơ điều trị tại Singapore, các bác sỹ tại đây xây dựng phác đồ tiếp nối phù hợp, gồm truyền hóa chất và chăm sóc giảm nhẹ. Sau 6 đợt điều trị tại Việt Nam, kết quả xét nghiệm cho thấy chỉ số CEA giảm còn 19, khối u được kiểm soát và không phát hiện thêm di căn mới. Ông Đ. cho biết điều trị tại Singapore tiêu tốn vài tỷ đồng, trong khi chi phí tại Việt Nam chỉ bằng khoảng 1/7.

Theo TS.BS Vũ Hữu Khiêm, chuyên khoa ung bướu, hiện nay nhiều người bệnh ung thư có điều kiện tài chính tốt vẫn lựa chọn thăm khám ban đầu tại Việt Nam, sau đó mới sang các quốc gia có thế mạnh về điều trị ung thư như Mỹ, Singapore hay Nhật Bản để tham khảo thêm trước khi quyết định điều trị.

Tuy nhiên, ngày càng có nhiều trường hợp bác sỹ nước ngoài khuyên bệnh nhân nên điều trị tại Việt Nam do phác đồ điều trị, thuốc men và chất lượng dịch vụ y tế giữa hai bên đã tương đồng.

Ngoài lý do chi phí điều trị ở nước ngoài cao và đi lại bất tiện, nhiều người muốn được gần gia đình trong thời gian điều trị. Với các trường hợp này, bác sỹ trong nước luôn chủ động phối hợp với các bệnh viện nước ngoài để nắm rõ quá trình chẩn đoán, điều trị trước đó, từ đó xây dựng phác đồ tiếp nối liền mạch, phù hợp với tình trạng hiện tại của người bệnh.

Bác sỹ Khiêm cho biết lĩnh vực điều trị ung thư tại Việt Nam những năm gần đây có nhiều bước tiến rõ rệt. Các bệnh viện lớn đã làm chủ nhiều kỹ thuật hiện đại như phẫu thuật nội soi, phẫu thuật robot, can thiệp xâm lấn tối thiểu, đồng thời có đầy đủ các loại thuốc nhắm trúng đích, thuốc miễn dịch thế hệ mới, với phác đồ điều trị thường xuyên được cập nhật theo tiêu chuẩn quốc tế.

Đặc biệt, Việt Nam lần đầu tiên hợp tác với Đại học Stanford (Mỹ) trong nghiên cứu thuốc điều trị ung thư miễn dịch đường uống RBS2418, trong khuôn khổ dự án VISTA-1 giai đoạn 2A. Dự án này mở ra cơ hội tiếp cận các loại thuốc tiên tiến cho người bệnh ung thư ngay tại Việt Nam mà không cần phải ra nước ngoài.

Theo số liệu Globocan năm 2022, Việt Nam ghi nhận hơn 180.000 ca ung thư mắc mới và 120.000 ca tử vong do ung thư, nằm trong nhóm có tỷ lệ mắc trung bình toàn cầu, xếp thứ 91 về tỷ suất mắc mới và thứ 50 về tỷ suất tử vong trong 185 quốc gia.

Theo Bộ Y tế, mỗi năm người Việt chi khoảng 2 tỷ USD cho việc ra nước ngoài điều trị bệnh, trong đó ung thư là một trong những nhóm bệnh có số lượng bệnh nhân ra nước ngoài nhiều nhất do tính chất phức tạp và yêu cầu kỹ thuật cao trong điều trị.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hệ thống y tế trong nước đang dần rút ngắn khoảng cách với quốc tế, mang lại nhiều lựa chọn điều trị hiệu quả, an toàn, với chi phí hợp lý hơn cho người bệnh ung thư tại Việt Nam.

Chủ quan với cúm, suýt không qua khỏi vì nhiễm thêm vi khuẩn và nấm

Trước đó ba ngày, anh H. bắt đầu sốt cao trên 39 độ C, uống thuốc hạ sốt chỉ giảm tạm thời rồi tái sốt. Anh đến bệnh viện địa phương, chụp X-quang phát hiện viêm phổi, xét nghiệm đàm cho kết quả dương tính với cúm A. Tuy nhiên, tình trạng sốt không cải thiện, huyết áp tụt, anh được chuyển đến viện cấp cứu trong tình trạng sốc nhiễm trùng nặng.

Ảnh minh họa.

Theo BS.CKI Đỗ Vũ Ngọc Anh, Khoa Nội tim mạch, Trung tâm Tim mạch, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, bệnh nhân nhập viện ngày 4/6 trong tình trạng sốt cao, ho có đàm, huyết áp chỉ còn 80/50 mmHg, biểu hiện suy tim cấp và sốc nhiễm trùng. Các bác sỹ đã lập tức sử dụng kháng sinh liều cao, thuốc vận mạch, thuốc trợ tim, đồng thời tiến hành cấy máu và cấy đàm để tìm nguyên nhân.

Kết quả cho thấy ngoài cúm A, bệnh nhân còn đồng nhiễm vi khuẩn tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus) và nấm Candida. Theo bác sỹ Ngọc Anh, đây là biểu hiện của bội nhiễm, tình trạng thường gặp sau nhiễm virus cúm gây viêm phổi nặng, suy hô hấp, dẫn đến suy đa cơ quan.

Bệnh nhân có tiền sử suy tim và bệnh mạch vành ba nhánh, khiến diễn tiến bệnh nhanh và nguy hiểm hơn. Nếu chậm trễ vài ngày, nguy cơ nhồi máu cơ tim và tử vong là rất cao.

Cùng điều trị cho bệnh nhân, ThS.BS.CKII Huỳnh Thanh Kiều, Trưởng khoa Nội tim mạch giải thích rằng bội nhiễm xảy ra khi người bệnh đang nhiễm virus thì bị thêm vi khuẩn hoặc nấm xâm nhập tại cùng vị trí tổn thương, khiến bệnh lý trở nên phức tạp hơn. Đây không phải là sự tiến triển của bệnh cũ mà là sự xuất hiện thêm một hoặc nhiều tác nhân gây bệnh mới.

Trường hợp của anh H., ban đầu có thể chỉ nhiễm cúm A nhưng vì không phát hiện và điều trị kịp thời, vài ngày sau đã đồng nhiễm thêm vi khuẩn và nấm, dẫn đến tổn thương gan, thận, tim và viêm cơ tim do sốc nhiễm trùng.

Bệnh nhân được điều trị tích cực bằng kháng sinh, thuốc vận mạch, lợi tiểu, hỗ trợ hô hấp bằng oxy, phun khí dung và tập vật lý trị liệu.

Sau một tuần, tình trạng cải thiện rõ rệt: huyết áp ổn định ở mức 110-120/80 mmHg, ho và tiết đàm giảm, bệnh nhân có thể cai máy thở và tập đi lại nhẹ nhàng. Sau hai tuần điều trị, chức năng gan, thận phục hồi, chỉ số co bóp tim EF đạt 60%, bệnh nhân tỉnh táo, ăn uống tốt và được cho xuất viện.

Bác sỹ Kiều cho biết, cúm A là bệnh nhiễm trùng đường hô hấp cấp tính do virus cúm mùa gây ra. Bệnh khởi phát đột ngột với các triệu chứng như sốt, ho, đau họng, chảy mũi, đau đầu, mệt mỏi, đau nhức cơ thể.

Hầu hết trường hợp có thể tự khỏi, nhưng nếu triệu chứng kéo dài hoặc diễn biến nặng, đặc biệt ở người có hệ miễn dịch yếu, bệnh rất dễ gây biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm cơ tim, suy tim, thậm chí tử vong.

Virus cúm dễ lây lan trực tiếp qua giọt bắn từ người bệnh trong phạm vi gần (dưới 2 mét). Do đó, để phòng ngừa bệnh, mỗi người cần chủ động giữ gìn vệ sinh cá nhân, rửa tay thường xuyên bằng xà phòng hoặc dung dịch sát khuẩn, tránh tiếp xúc với người nghi mắc cúm, không tập trung nơi đông người trong mùa dịch.

Không gian sống và làm việc cần được vệ sinh, khử khuẩn và thông thoáng. Ngoài ra, nên tăng cường miễn dịch bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên và đặc biệt là tiêm vắc xin cúm đầy đủ, đúng lịch, nhất là đối với người có nguy cơ cao như người lớn tuổi, trẻ em, phụ nữ mang thai và người mắc bệnh nền.

Trường hợp của anh H. là lời cảnh tỉnh cho cộng đồng: cảm cúm không đơn giản như nhiều người nghĩ. Nếu chủ quan, không điều trị đúng và kịp thời, cúm có thể mở đường cho những biến chứng nguy hiểm, thậm chí đe dọa tính mạng.

Giải pháp không sẹo, không đau cho người nhịp tim chậm

Một người đàn ông 43 tuổi tại TP.HCM liên tục chóng mặt, hồi hộp vì nhịp tim chậm bất thường. Sau khi được chẩn đoán block nhĩ thất độ 2 kèm ngưng xoang, anh đã được cấy máy tạo nhịp siêu nhỏ không dây. Đây là một bước tiến lớn trong điều trị rối loạn nhịp tim hiện đại.

Anh T. bắt đầu xuất hiện triệu chứng hồi hộp, đánh trống ngực, đặc biệt rõ ràng vào lúc nghỉ ngơi kèm theo chóng mặt kéo dài suốt một tháng. Tại bệnh viện địa phương, điện tim đồ 24h (Holter ECG) ghi nhận block nhĩ thất độ 2 - Mobitz II và đoạn ngưng xoang kéo dài. Bác sỹchỉ định đặt máy tạo nhịp tim để ngăn ngừa ngất xỉu, ngưng tim hoặc đột tử.

Tuy nhiên, do có cơ địa sẹo lồi, anh lo ngại để lại vết mổ mất thẩm mỹ nếu cấy máy có dây, nên đã tìm đến viện để thực hiện phương pháp cấy máy tạo nhịp không dây.

Theo GS.TS.BS Võ Thành Nhân, người trực tiếp điều cho bệnh nhân cho hay, khi nhập viện, nhịp tim của bệnh nhân lúc thấp nhất chỉ còn 35 nhịp/phút, có thời điểm tim ngưng đập tới 4 giây. Điện tâm đồ xác nhận bệnh nhân bị block nhĩ thất - tình trạng rối loạn dẫn truyền điện giữa tâm nhĩ và tâm thất, gây ra nhịp tim chậm hoặc rối loạn nghiêm trọng.

Block nhĩ thất được phân làm 3 cấp độ, trong đó Mobitz II, dạng bệnh anh Tín gặp là thể nặng, nguy cơ tiến triển thành block hoàn toàn (độ 3). Nếu không được cấy máy tạo nhịp sớm, người bệnh có thể rơi vào tình trạng ngất xỉu, suy tim, nhồi máu cơ tim, ngừng tim hoặc tử vong đột ngột.

Bệnh nhân sau đó được chỉ định cấy máy tạo nhịp không dây  một thiết bị có kích thước chỉ bằng viên thuốc con nhộng, nhỏ gọn gấp 10 lần máy có dây và có thể hoạt động đến 12 năm.

Đây là một bước tiến vượt bậc so với máy tạo nhịp có dây truyền thống, vốn đòi hỏi phẫu thuật rạch da để tạo túi chứa máy và luồn dây điện cực từ tĩnh mạch dưới đòn vào buồng tim. Phương pháp cũ thường tiềm ẩn nguy cơ nhiễm trùng, sẹo lồi, tụ máu, tràn dịch màng phổi, đặc biệt ở người có thể trạng gầy hoặc da mỏng.

Ngược lại, kỹ thuật cấy máy không dây không cần rạch da, không có dây dẫn, ít biến chứng và không để lại sẹo. Bác sỹchỉ cần luồn ống thông từ tĩnh mạch đùi đưa máy vào trực tiếp buồng thất phải dưới hướng dẫn của hệ thống chẩn đoán hình ảnh X-quang. Toàn bộ quá trình chỉ mất khoảng 30 phút.

Ca can thiệp do chính GS Nhân cùng ê-kíp thực hiện. Chỉ một ngày sau, anh Tín không còn chóng mặt, cảm giác hồi hộp cũng biến mất, nhịp tim ổn định và được xuất viện trong trạng thái khỏe mạnh.

Đáng chú ý, GS.TS.BS Võ Thành Nhân là bác sỹ Việt Nam đầu tiên được cấp chứng chỉ chuyên gia độc lập (Solo Operator) và huấn luyện viên (Proctor) trong lĩnh vực cấy máy tạo nhịp không dây.

Ông đánh giá đây là kỹ thuật can thiệp khó, đòi hỏi bệnh viện phải có phòng thông tim hoặc phòng hybrid hiện đại cùng đội ngũ chuyên môn cao. 

Máy tạo nhịp là thiết bị điện tử cấy vào tim để kiểm soát và điều chỉnh nhịp tim cho những người bị rối loạn dẫn truyền, nhịp tim chậm thường gặp ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, bệnh tim thoái hoá, bệnh van tim… Đây cũng là phương tiện cứu sống hiệu quả trong các ca ngưng tim đột ngột.

Hiện nay, có hai loại máy tạo nhịp: có dây và không dây. Dù cả hai đều giúp điều hòa nhịp tim, nhưng máy không dây đang dần trở thành lựa chọn ưu tiên nhờ sự an toàn, thẩm mỹ và giảm nguy cơ biến chứng sau thủ thuật.

Về lâu dài, bệnh nhân cấy máy tạo nhịp cần tái khám đúng hẹn để kiểm tra thiết bị và nhịp tim. Đồng thời, các biện pháp phòng ngừa block nhĩ thất cũng rất quan trọng: tập thể dục đều đặn, chế độ ăn lành mạnh, không hút thuốc, hạn chế rượu bia và kiểm tra tim mạch định kỳ. Nếu xuất hiện các triệu chứng như mệt mỏi bất thường, ngất, chóng mặt, hụt hơi, đau ngực... cần đến bệnh viện ngay để được chẩn đoán và xử trí kịp thời.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư