Thứ Tư, Ngày 20 tháng 08 năm 2025,
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần sự đóng góp rất lớn của khu vực FDI
Mạnh Bôn - 20/08/2025 12:00
 
Để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, đạt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vẫn cần dựa vào nguồn lực của khu vực FDI
TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập (Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính).

Theo TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Ban Quốc tế và Chính sách hội nhập (Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính, Bộ Tài chính), quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại cần sự đóng góp rất lớn của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Muốn có ngành công nghiệp hiện đại, bắt buộc phải công nghiệp hóa. Thưa ông, quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam đã được thực hiện từ khi bắt đầu Đổi mới?

Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, được xem là con đường tất yếu để Việt Nam trở thành một quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Thực tế, Việt Nam đã thực hiện công nghiệp hóa từ trước thời kỳ Đổi mới với định hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng.

Sau năm 1986, đặc biệt từ năm 2001 đến nay, cùng với quá trình hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, tiến trình công nghiệp hóa của nước ta đạt được nhiều thành tựu, tuy nhiên, vẫn không đạt mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020.

Trong kỷ nguyên mới, định hướng công nghiệp hóa của Việt Nam đã được đặt ra trong Nghị quyết 29/NQ-TW năm 2022. Các mục tiêu, quan điểm về công nghiệp hóa của Nghị quyết 29/NQ-TW sẽ được nghiên cứu để đưa vào Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV với nội dung chủ yếu là chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội, dựa chủ yếu vào sự phát triển của công nghiệp và dịch vụ trên nền tảng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Mặc dù đạt được những tiến bộ vượt bậc về tăng trưởng kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, ông có nghĩ rằng, trong giai đoạn tới, vẫn phải cần vốn FDI để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa?

Năm 2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Nghị quyết 50-NQ/TW nhận định, hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng sôi động, nhiều tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp lớn với công nghệ hiện đại đầu tư vào nước ta; quy mô vốn và chất lượng dự án tăng, góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Sau 6 năm triển khai Nghị quyết 50/NQ-TW, Bộ Tài chính đã giao Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính thực hiện đánh giá bước đầu về FDI đóng góp thế nào đến công nghiệp hóa tại Việt Nam. Theo đánh giá của chúng tôi, bức tranh FDI vào Việt Nam chứng kiến sự dịch chuyển rất tích cực.

Cụ thể, giai đoạn 2010 - 2024 chứng kiến sự dịch chuyển vốn từ các ngành thâm dụng lao động sang công nghệ cao. Tỷ trọng ngành điện tử tăng từ 4,1% (2010) lên 17,8% (2024); dòng vốn FDI tập trung mạnh vào ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - xương sống của công nghiệp hóa.

Năm 2024, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút 24,68 tỷ USD vốn FDI cả cấp mới và tăng thêm, chiếm 73,3% tổng vốn FDI; vốn FDI thực hiện đạt 20,62 tỷ USD, chiếm 81,4%. Trong 7 tháng năm nay, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thu hút 12,12 tỷ USD, chiếm 60,6% tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm; vốn thực hiện đạt 11,1 tỷ USD, chiếm 81,6%.

Số liệu trên cho thấy, để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, đạt mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam cơ bản đạt được các tiêu chí của nước công nghiệp, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, vẫn cần dựa vào nguồn lực của khu vực FDI.

Doanh nghiệp tư nhân đang lớn mạnh và dòng vốn FDI sẽ có sự thay đổi khi Hoa Kỳ thực hiện thuế đối ứng, thưa ông?

Nghị quyết 68/NQ-TW về phát triển kinh tế tư nhân đã đặt kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp lớn vào tăng trưởng, tạo việc làm và đổi mới sáng tạo. Đây là quan điểm đúng vì không nền kinh tế nào muốn phát triển mà không tự lực, tự chủ. Nhưng trên thế giới, bất cứ nền kinh tế nào, kể cả Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU, Singapore..., lại không muốn FDI. Thậm chí, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thực hiện các cơ chế, chính sách ưu đãi mời gọi vốn FDI.

Với những nền kinh tế đang trong quá trình công nghiệp hóa như Việt Nam, nguồn vốn FDI càng có ý nghĩa. Phải khẳng định, khu vực FDI đã đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong suốt 40 năm qua. Dòng vốn FDI là nguồn lực thiết yếu, mang đến không chỉ vốn, mà còn cả công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, cơ hội việc làm và mở rộng thị trường xuất khẩu, ngày càng giúp Việt Nam tham gia sâu hơn chuỗi giá trị toàn cầu.

Việt Nam đang dần trở thành một trong những điểm đến quan trọng của nhà đầu tư vào ASEAN. Ngay cả những thời điểm dòng vốn toàn cầu bị ảnh hưởng, dòng FDI vào Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng tương đối cao. Đơn cử, năm 2023, khi dòng vốn toàn cầu giảm khoảng 10%, Việt Nam vẫn đạt kỷ lục thu hút 36 tỷ USD vốn đăng ký và 25,5 tỷ USD vốn thực hiện, tăng 3,5%.

Nước nào cũng “khát” FDI, nhưng khác với các nước khác, FDI đầu tư ở Việt Nam liên kết, tương tác với doanh nghiệp tư nhân thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa về năng suất và công nghệ chưa cao, tỷ lệ nội địa hóa còn thấp...?

Đây là một thực tế, nhưng tôi nghĩ, cũng không thể trách FDI được, vì nguyên nhân chính là doanh nghiệp trong nước không đáp ứng được yêu cầu là đối tác của họ. FDI tập trung chủ yếu vào lĩnh vực chế biến, chế tạo, nên họ cần các nhà cung cấp phụ tùng, chi tiết máy móc rất lớn. Để đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo ra sản phẩm là đầu vào cho Samsung, LG, Foxconn..., cần nguồn vốn rất lớn, đòi hỏi công nghệ cao, thu hồi vốn lâu. Đây không phải là “món khoái khẩu” của doanh nghiệp nội địa, mà “món ưa thích” của doanh nghiệp nội địa là bất động sản, chứng khoán, dịch vụ, thương mại, nhà băng...

Rất nhiều doanh nghiệp FDI muốn mua thiết bị, chi tiết máy móc, phụ tùng của doanh nghiệp nội địa, nhưng không mua được, hoặc mua với giá cao hơn so với nhập khẩu, thì không trách FDI không chuyển giao công nghệ, tỷ lệ nội địa hóa thấp được. Muốn tỷ lệ nội địa hóa cao, doanh nghiệp nội địa là mắt xích trong chuỗi sản xuất toàn cầu, thì doanh nghiệp phải tự lớn, phải đáp ứng được yêu cầu của FDI, chứ không còn cách nào khác.

Có thể sử dụng mệnh lệnh hành chính để “ép” FDI chuyển giao công nghệ không, thưa ông?

Đúng là có một số nước làm được như vậy, như Trung Quốc chẳng hạn. Trung Quốc có thể ép FDI chuyển giao công nghệ, vì họ là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, là công xưởng củathế giới, thị trường vô cùng lớn với 1,4 tỷ dân, là nền kinh tế chạm mốc phát triển, doanh nghiệp nội địa đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của FDI. Trung Quốc cần FDI, cũng như FDI cần Trung Quốc, nên họ có thể đàm phán FDI chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa được.

Việt Nam đã tham gia 17 hiệp định thương mại tư do (FTAs). Các hiệp định đều quy định rõ việc bảo hộ sở hữu trí tuệ và đối xử bình đẳng. Việt Nam không có quy định doanh nghiệp nội địa phải chuyển giao công nghệ cho nhau, thì không có lý do gì yêu cầu FDI chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp nội địa.

Hậu sáp nhập, địa phương nào dẫn đầu về thu hút vốn FDI?
Trong 7 tháng đầu năm 2025, TP.HCM, sau khi sáp nhập với Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương, đã vươn lên dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài,...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư