Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 09 tháng 11 năm 2024,
Đại học Kinh tế quốc dân: Đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ để cứu tổng cầu
Khánh Linh - 04/09/2023 08:57
 
Phục hồi tổng cầu là nhiệm vụ quan trọng nhất từ nay tới cuối năm, Đại học Kinh tế quốc dân phân tích khi gửi 7 kiến nghị tới các cơ quan Đảng, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, ban ngành Trung ương.

Các thành phần của tổng cầu của nền kinh tế đang chịu tác động tiêu cực

Các giải pháp trong tập kiến nghị 26 trang mà Đại học Kinh tế quốc dân (NEU) gửi tới các cơ quan được chắt lọc từ các nhà khoa học hàng đầu. “Mong muốn đóng góp vào quá trình phát triển chung của nền kinh tế”, NEU viết gửi các cơ quan.

Theo phân tích của NEU, từ đầu năm 2023 đến nay, kinh tế thế giới vẫn gặp nhiều bất ổn xuất phát từ lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, Ngân hàng Trung ương nhiều nước tiếp tục theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt và các yếu tố chính trị như căng thẳng chính trị giữa Nga – Ukraine.

Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như áp lực kiểm soát lạm phát lớn, hoạt động đầu tư chưa đạt được như kỳ vọng, tăng trưởng tín dụng thấp, kim ngạch xuất nhập khẩu giảm mạnh so với cùng kỳ. 

Tổng cầu đóng vai trò quan trọng trong xác định mức độ sản xuất và việc làm trong nền kinh tế. Tổng cầu giảm cho thấy nền kinh tế có nguy cơ suy thoái, điều này ảnh hưởng đến mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, gây ra các hậu quả như sản xuất công nghiệp sụt giảm, thất nghiệp tăng cao, giảm thu nhập và chi tiêu của người dân...

Những thách thức nêu trên đã ảnh hưởng tiêu cực tới tất cả các thành phần của tổng cầu của nền kinh tế khiến mục tiêu tăng trưởng 6,5% năm 2023 khó có thể đạt được.

“Vì vậy, phục hồi tổng cầu là một nhiệm vụ quan trọng đối với nền kinh tế trong nửa cuối năm 2023”, Đại học Kinh tế quốc dân kiến nghị.

Đẩy mạnh chính sách tài khóa nghịch chu kỳ 

Đứng đầu 7 kiến nghị của Đại học Kinh tế quốc dân là  tiếp tục đẩy mạnh chính sách tài khóa chu kỳ nghịch nhằm đạt được sự tăng trưởng kinh tế ổn định.

Cụ thể,  theo quan điểm của NEU, mục tiêu đạt được tăng trưởng ổn định của chính sách tài khóa nghịch chu kỳ được thực hiện qua hai công cụ: (1) Tăng chi tiêu công, (2) Giảm thuế.

Chính phủ cần tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế chính sách để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công nhằm mang lại hiệu quả kịp thời. Việc giảm thuế cần áp dụng đúng đối tượng, đơn giản hóa thủ tục hoàn thuế.

"Các quy định về thuế đối với từng nhóm đối tượng cần nhất quán, tránh mâu thuẫn như giảm thuế giá trị gia tăng nhưng lại tăng thuế tiêu thụ đặc biệt", kiến nghị của NEU viết.

Kiến nghị thứ hai là, tháo gỡ vướng mắc khi giải ngân vốn đầu tư công nhằm đẩy nhanh quá trình phục hồi kinh tế. Tuy nhiên, trong kiến nghị này, NEU tiếp tục kiến nghị xác định rõ nguyên nhân và triển khai quyết liệt một số giải pháp.

“Cần có các giải pháp sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp luật theo hướng giảm vướng mắc trong tất cả các khâu quản lý dự án, từ chuẩn bị đến quy hoạch và thực hiện, như nghiên cứu thêm trường hợp chủ đầu tư có thể chủ động sử dụng một số khoản kinh phí hợp pháp ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn (kể cả nguồn vốn chi thường xuyên) để lập dự án, chuẩn bị đầu tư trước thay vì phải đợi tổng hợp hay bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn”, các chuyên gia của NEU đề xuất chi tiết.

Bên cạnh đó, cần bổ sung thêm các quy định về điều kiện phân bổ kế hoạch vốn hằng năm cho các nhiệm vụ chuẩn bị và quy hoạch nhằm tạo điều kiện cho chủ đầu tư tiếp cận được vốn cho nhiệm vụ chuẩn bị và chủ động lập các kế hoạch đầu tư.

Việc giải quyết các vấn đề trong giải phóng mặt bằng cũng cần được ưu tiên giải quyết.

Kiến nghị thứ ba là cải thiện chính sách an sinh xã hội cho người nghèo hướng tới tăng trưởng bền vững và bao trùm.

Kiến nghị thứ tư là giảm thiểu rủi ro do điều tra phòng vệ thương mại hướng tới tăng trưởng xuất khẩu bền vững.

Phát triển du lịch hướng tới cân đối cán cân xuất  - nhập khẩu dịch vụ

Kiến nghị thứ 5 là phát triển du lịch hướng tới cân đối cán cân xuất  - nhập khẩu dịch vụ. Trong kiến nghị này, NEU cho rằng, Việt Nam mới chỉ chú trọng đến xuất nhập khẩu hàng hóa mà chưa thực sự quan tâm đến xuất-nhập khẩu dịch vụ mặc dù các ngành dịch vụ của Việt Nam như du lịch, tài chính, ngân hàng, vận tải và logistics... đều có tiềm năng phát triển rất lớn.

Vì vậy, NEU nhận định, điều cấp thiết hiện nay là thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ hướng tới cân đối cán cân xuất-nhập khẩu dịch vụ một cách bền vững.

Dựa trên các văn bản pháp luật về xuất nhập khẩu hàng hóa, cần khẩn trương nghiên cứu và rà soát các văn bản pháp luật, tạo các chiến lược và chương trình hành động nhằm cụ thể hóa mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và các hành động để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các dịch vụ, phù hợp với lộ trình cam kết và các hiệp định song phương, đa phương nhằm hoàn thiện môi trường kinh doanh bình đẳng và an toàn cho các tổ chức dịch vụ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và các chuẩn mực, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam để nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các dịch vụ xuất khẩu. 

Bên cạnh đó, xuất khẩu dịch vụ hầu như phụ thuộc chủ yếu vào du lịch. Do đó, muốn giảm nhập siêu dịch vụ cần có nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, chẳng hạn như kết nối làm thị trường giữa hàng không và du lịch, kích cầu du lịch và giảm vé máy bay.

Từ kinh nghiệm của Thái Lan, để hạ giá vé, thu hút du lịch cần thúc đẩy hợp tác giữa 2 bên, tạo ra những chính sách ưu đãi. doanh nghiệp khách sạn, nghỉ dưỡng hợp tác với các hãng hàng không để bán vé trọn gói vận chuyển, lưu trú, tham quan, mua sắm. Hàng không cũng cung cấp cho các công ty du lịch một lượng vé với giá bay thấp hơn giá vé khách đặt lẻ trực tiếp với hãng hàng không. Đồng thời, chính quyền các địa phương cũng cần có chính sách hỗ trợ và thúc đẩy hợp tác giữa công ty du lịch và hãng không nhằm kích cầu du lịch quốc tế.

Kiến nghị thứ 6 là phát triển xuất khẩu bền vững đi liền với đa dạng hóa thị trường hướng đến cán cân thương mại lành mạnh.

Tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp tiếp cận vốn

Một trong những khó khăn lớn nhất với các doanh nghiệp hiện nay, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, là tiếp cận nguồn vốn tín dụng do khó đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về điều kiện vay vốn.

Tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong quá trình tiếp cận vốn tín dụng là kiến nghị thứ 7 của NEU.

Để khơi thông dòng vốn tín dụng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ sớm phục hồi sản xuất kinh doanh, NEU đề xuất một số giải pháp.

Một là, thực hiện hiệu quả các quy định về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ tại các tổ chức tín dụng nhằm giúp doanh nghiệp giảm bớt áp lực về tỷ lệ nợ xấu và chi phí dự phòng rủi ro.

Thông tư số 02/2023/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn.

Để chính sách nói trên phát huy tác dụng tích cực, các bên liên quan đều phải tuân thủ nghiêm túc các quy định đặt ra trong Thông tư cũng như quy định của pháp luật về các vấn đề liên quan, đặc biệt là quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và quy định về phân loại tài sản có, trích lập dự phòng rủi ro và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng.

Theo đó, các tổ chức tín dụng cần đánh giá một cách chính xác hiện trạng tài chính cũng như khả năng tạo lập nguồn thu để trả nợ của khách hàng theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại nếu khách hàng đáp ứng đủ các quy định của NHNN, đồng thời cần trích lập đầy đủ dự phòng rủi ro đối với khách hàng có khoản nợ được cơ cấu lại để đảm bảo được nguồn lực tài chính phục vụ việc xử lý rủi ro đối với những khách hàng được cơ cấu lại nhưng không có khả năng trả nợ theo thời hạn được cơ cấu lại. Về phía Ngân hàng Nhà nước, cần giám sát chặt chẽ quá trình triển khai của các tổ chức tín dụng để phát hiện và có biện pháp chấn chỉnh kịp thời các trường hợp không thực hiện đúng quy định hoặc có biểu hiện trục lợi chính sách nhằm làm sạch sổ sách, báo cáo.

Hai là, cần phát triển các sản phẩm tín dụng đặc thù cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm giải quyết khó khăn về điều kiện vay vốn khi vay theo phương thức truyền thống. 

Để tháo gỡ khó khăn về tài sản đảm bảo, các ngân hàng có thể cân nhắc các giải pháp linh hoạt như cho phép thế chấp khoản phải thu, quyền đòi nợ hình thành trong tương lai từ hợp đồng thương mại, thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay để hỗ trợ doanh nghiệp".
Đại học Kinh tế quốc dân kiến nghị

Phần lớn các doanh nghiệp SMEs hiện nay không tuân thủ chuẩn mực kế toán do thiếu hụt về nhiều nguồn lực, tồn tại tình trạng số liệu trong các sổ sách kế toán không khớp nhau,… Bên cạnh đó, doanh nghiệp SMEs thường có mô hình kinh doanh nhỏ lẻ, thiếu minh bạch giữa tài chính của cá nhân, chủ sở hữu và doanh nghiệp, báo cáo tài chính thường chưa được kiểm toán, nguồn vốn còn hạn chế, không có tài sản đảm bảo khiến nhiều trường hợp khó đáp ứng được điều kiện vay vốn ngân hàng.

Tuy nhiên, các ngân hàng cũng không thể hạ chuẩn vay do cần tuân theo các quy định pháp luật hay tiêu chuẩn Basel quốc tế. Vì vậy, cần có nhiều hơn nữa những giải pháp để giải quyết vướng mắc về điều kiện vay vốn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại cần tích cực hơn nữa trong việc phát triển các sản phẩm tín dụng đặc thù cho SMEs như tài trợ chuỗi cung ứng, cho vay thấu chi doanh nghiệp, cho vay đầu tư tài sản cố định gián tiếp, cho vay mua, phân phối ô tô, các sản phẩm tín dụng ngành tiềm năng.

Chính sách điều hành kinh tế của Việt Nam đang đi đúng hướng
Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2023 ở mức 6-6,5%.
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư