Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Bảy, Ngày 20 tháng 04 năm 2024,
Hoàn thiện chính sách phát triển HTX trong lâm nghiệp tại Việt Nam
Tại Việt Nam, các mô hình HTX (HTX) đang được xem như là một giải pháp hữu hiệu để tổ chức quản lý sản xuất trong lĩnh vực lâm nghiệp, bởi vì chi phí thấp và thủ tục đơn giản để xây dựng và vận hành tổ chức. Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ để thúc đẩy HTX lâm nghiệp phát triển. Tuy nhiên, phát triển HTX lâm nghiệp vẫn còn rất nhiều thách thức, bởi nhiều chính sách vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của các HTX lâm nghiệp trong thực tế.
TIN LIÊN QUAN

Bài viết này đề cập đến thực trạng hoạt động của các HTX lâm nghiệp và thông qua kinh nghiệm thực thi chính sách nhằm tìm kiếm một số giải pháp chính sách cấp bách và khả thi để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các HTX lâm nghiệp tại Việt Nam trong tương lai.

Sự phát triển của HTX trong ngành lâm nghiệp

Phát triển kinh tế tập thể với nòng cốt là phát triển HTX (HTX) là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Chủ trương này đã được thể hiện rõ ràng và cụ thể trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và trong nhiều văn bản nghị quyết của Đảng và Chính Phủ.

Trong thời gian qua, đã có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ được ban hành để khuyến khích và thúc đẩy HTX phát triển, đóng góp quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả kinh tế, ổn định tổ chức sản xuất và tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, các mô hình sản xuất theo hình thức HTX đang được xem như là một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức quản lý sản xuất hiện nay, bởi chi phí thấp và thủ tục tương đối đơn giản trong quá trình xây dựng và vận hành.

HTX lâm nghiệp ngày càng có vai trò quan trọng trong việc cung cấp vật tư đầu vào (giống, phân bón) và dịch vụ đầu ra (thu mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm gỗ) cho các thành viên và cung ứng các dịch vụ sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp ra bên ngoài. Mặc dù trên thực tế số lượng HTX hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp ở nước ta chiếm số lượng nhỏ (151 HTX lâm nghiệp, năm 2015) nhưng đã và đang ngày càng xuất hiện nhiều hơn các mô hình hoạt động có hiệu quả cao, chất lượng tổ chức sản xuất ngày càng hoàn thiện và có khả năng đáp ứng các yêu cầu đặt ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đó là việc tổ chức sản xuất, kinh doanh lâm nghiệp thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu và phù hợp với các yêu cầu VPA/FLEGT trong tương lai… Tuy nhiên, phát triển HTX lâm nghiệp trong thời gian qua vẫn còn nhiều khó khăn, tồn tại. Bên cạnh một số ít HTX hoạt động hiệu quả cao mang lại lợi ích cho HTX và các thành viên, thì đa phần các HTX còn lại có chất lượng hoạt động yếu, hiệu quả thấp và ít có tính cạnh tranh (Bộ NN& PTNT, 2014).

Từ năm 2012, cả nước thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Trong các giải pháp thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp có giải pháp phát triển HTX và thúc đẩy hợp tác, liên kết theo chuỗi giá trị giữa doanh nghiệp, HTX và hộ gia đình. Nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ HTX lâm nghiệp đã được thực hiện. Nhiều HTX đã được hưởng các hỗ trợ từ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, nhiều chính sách vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu của các HTX lâm nghiệp trong thực tế.

Thực trạng quản lý và hoạt động của HTX trong lâm nghiệp

Về số lượng và hình thức tổ chức: Theo số liệu thống kê của Bộ NN&PTNT, tính đến tháng 11/2015 cả nước có 151 HTX lâm nghiệp trong tổng số 10.897 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, còn lại chiếm đa số là các HTX kinh doanh tổng hợp (chiếm 74,25%). Hầu hết các HTX lâm nghiệp được tổ chức hoạt động và quản lý theo mô hình 1 bộ máy (chưa chuyển đổi sang mô hình HTX 2 bộ máy như quy định của Luật HTX năm 2012). Hình thức tổ chức quản lý theo mô hình 1 bộ máy gồm có: Ban quản trị thường có 3 người  (01 chủ nhiệm HTX phụ trách chung, 01 Phó chủ nhiệm và 01 ủy viên) và Ban Kiểm soát HTX thường có 2 người. Bộ máy giúp việc cho Ban quản trị gồm có kế toán, thủ quỹ, các tổ dịch vụ. Đa số các HTX đều bố trí 1 kế toán là thành viên HTX, tuy nhiên, nhiều HTX chỉ thuê kế toán theo thời vụ do HTX không có nhiều hoạt động hoặc không có đủ kinh phí để trả lương. Những HTX thực hiện nhiều hoạt động sản xuất, dịch vụ thường bố trí thêm tác tổ, đội sản xuất, câu lạc bộ hoặc các tổ hợp tác trực thuộc HTX để thuận tiện cho quá trình điều hành HTX.

Về trình độ cán bộ quản lý:  Theo kết quả báo cáo của Cục KTHT&PTNT, Bộ NN&PTNT (năm 2014): chỉ có 11,3% cán bộ trong Ban quản trị HTX có trình độ cao đẳng, đại học; chỉ có 12% chủ nhiệm HTX có trình độ đại học; và đa số cán bộ quản lý HTX chưa qua tập huấn nghiệp vụ chuyên môn trước khi đảm nhiệm các vị trí quản lý HTX. Có thể nói, hầu hết trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ HTX lâm nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong điều kiện kinh tế thị trường đòi hỏi trình độ tổ chức sản xuất cao.

Về tài sản của HTX: Các loại tài sản có giá trị của HTX chủ yếu gồm: trụ sở làm việc; đất đai, công trình hạ tầng được giao quản lý, sử dụng (hồ, đập, trạm bơm, kênh mương nội đồng, ao hồ); phương tiện vận tải và trang thiết bị máy móc (máy bơm, thiết bị văn phòng); nhà xưởng, kho chứa... Giá trị tài sản của hầu hết các HTX rất thấp, trong đó nhiều tài sản không có chứng nhận quyền sử dụng, không có khả năng thế chấp nên HTX gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận với tín dụng, nhất là tín dụng thương mại có thế chấp.

Về hoạt động cung cấp dịch vụ: Bên cạnh một số hoạt động dịch vụ công như khuyến lâm, bảo vệ thực vật, phòng chữa cháy thì các HTX lâm nghiệp còn trực tiếp cung cấp dịch vụ SXKD, các hoạt động chủ yếu gồm: cung ứng vật tư đầu vào (giống, phân bón, thuốc BVTV,…); tổ chức cung ứng dịch vụ làm đất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm; cung ứng nhân công lao động... Gần như tất cả các HTX lâm nghiệp vừa cung ứng dịch vụ cho các thành viên, vừa cung cấp dịch vụ ra bên ngoài. Theo kết quả điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT năm 2015, số HTX có tỷ lệ cung cấp sản phẩm dịch vụ ra bên ngoài có giá trị dưới 32% theo đúng quy định của Nghị định 193/2013/NĐ-CP là 63,6% tổng số HTX; còn lại 36,4% HTX có giá trị sản phẩm dịch vụ cung ứng ra bên ngoài lớn hơn 32% (chưa đạt được yêu cầu của Nghị định 193/2013/NĐ-CP). Kết quả khảo sát thực tế của Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT cũng chỉ ra việc đưa ra quy định về tỷ lệ sản phẩm dịch vụ cung ứng ra bên ngoài nhỏ hơn 32% theo đúng quy định của Nghị định 193/2013/NĐ-CP đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc cho hoạt động của HTX, vì các HTX chỉ có thể đảm bảo quy mô hoạt động và nâng cao hiệu quả tài chính khi được cung cấp dịch vụ ra bên ngoài.

Chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển HTX trong lâm nghiệp

Về chính sách ưu đãi tín dụng: Theo kết quả điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT năm 2015, các HTX hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp được vay vốn tín dụng là rất thấp, chỉ có khoảng 6,7% HTX tiếp cận được nguồn vốn vay tín dụng. Các HTX thường chỉ nhận được các khoản tín dụng nhỏ, ngắn hạn từ các ngân hàng thương mại. Mặc dù Nghị định 41/2010 cho phép các ngân hàng thương mại cho HTX vay tín chấp đến mức 500 triệu đồng/HTX, tuy nhiên trên thực tế các HTX thường khó vay được vốn từ các ngân hàng thương mại bởi một số lí do cơ bản sau: HTX hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận thấp; HTX không có tài sản thế chấp hoặc giá trị tài sản rất thấp; HTX thiếu phương án sản xuất kinh doanh khả thi (khả năng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh không rõ ràng do năng lực của cán bộ yếu kém)… Mặc dù đã có một số HTX được vay vốn ở Quỹ hỗ trợ phát triển HTX với lãi suất ưu đãi, thủ tục và điều kiện vay đơn giản nhưng quy mô vốn của Quỹ hiện nay rất nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các HTX (cả nước có khoảng 30 tỉnh/thành phố thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX do Liên minh HTX cấp tỉnh quản lí).

Về chính sách ưu đãi giao đất, cho thuê đất đai: Kết quả điều tra của Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT năm 2015 đã chỉ ra: chính sách giao đất cho HTX nông, lâm, ngư nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên nhân chủ yếu do địa phương không có quỹ đất hoặc không chuyển đổi được mục đích sử dụng đất theo quy hoạch (hiện nay các địa phương đều không có quy hoạch đất dành riêng cho phát triển kinh tế tập thể); mặt khác, các HTX đã được giao đất nhưng chưa được cấp GCN quyền sử dụng đất do thiếu thông tin về chính sách giao đất lâu dài cho HTX hoặc do quy trình và thủ tục phức tạp.

Về chính sách ưu đãi thuế: Theo Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2013, HTX chỉ được hưởng mức thuế suất ưu đãi 10% cho phần thu nhập của HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp. Để hưởng ưu đãi, các HTX cần phải có hệ thống tài chính kế toán minh bạch rõ ràng. Tuy nhiên, hệ thống kế toán của nhiều HTX vẫn còn yếu kém, thì đây vẫn là vấn đề khó khăn cho các HTX trong việc hưởng ưu đãi từ chính sách giảm thuế TNDN.

Về chính sách hỗ trợ, khuyến khích thành lập mới, tổ chức lại  HTX: Theo Luật HTX năm 2012 đòi hỏi các HTX đang hoạt động phải đăng kí lại hoạt động. Tuy nhiên, các HTX lâm nghiệp còn gặp khó khăn trong chuyển đổi cho phù hợp với luật HTX năm 2012 do thiếu cán bộ hỗ trợ, tư vấn chuyển đổi; thiếu các văn bản hướng dẫn chuyển đổi thành tổ chức 2 bộ máy quản lí và điều hành; thiếu quy định về nguồn kinh phí, mức hỗ trợ cho chuyển đổi; gặp khó khăn trong việc đáp ứng các quy định về sản phẩm dịch vụ cung ứng ra bên ngoài, tỷ lệ vốn góp của thành viên…. Một số HTX tồn tại trên giấy tờ nhưng không hoạt động từ nhiều năm (thực tế là đã phá sản) nhưng gặp khó khăn trong vấn đề giải thể do HTX không thu hồi được các khoản nợ cũ của thành viên và khách hàng, không làm rõ được tài sản, đất đai, trang thiết bị của HTX trước đây.

Về chính sách hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo: Chính sách hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX mới đáp ứng được cho một số ít HTX, chủ yếu đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn cho cán bộ quản lý HTX. Công tác hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX về cơ bản chưa đáp ứng nhu cầu do nguồn kinh phí hạn chế cũng như nội dung và phương thức đào tạo chưa phù hợp.

Về chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường: Các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các HTX còn rất nhiều hạn chế về số lượng và chất lượng (trung bình mỗi tỉnh chỉ hỗ trợ được 3-5 HTX/năm). Nội dung triển khai chính sách hỗ trợ xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các HTX mới chỉ tập trung vào hỗ trợ các HTX tham gia hội trợ triển lãm, hội nghị giới thiệu sản phẩm, đối thoại… nhưng còn thiếu các cơ chế hỗ trợ HTX liên kết với doanh nghiệp để ổn định thị trường đầu ra cho sản phẩm, hỗ trợ xây dựng thương hiệu sản phẩm, hỗ trợ ứng dụng KHCN vào sản xuất và chế biến sản phẩm để nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển HTX trong lâm nghiệp

Từ những khó khăn đang gặp phải trong thực tiễn của các HTX, bài báo này tổng hợp một số đề xuất chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của các HTX hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp như sau:

Thứ nhất, hỗ trợ HTX lâm nghiệp được tiếp cận thuận lợi với các nguồn vốn vay ưu đãi trong và ngoài nước; đồng thời cho phép HTX có thể sử dụng tài sản của HTX sẽ được hình thành từ vốn vay để làm cơ sở thế chấp vay vốn từ ngân hàng thương mại. Các tài sản được hình thành từ vốn vay (hình thành tài sản trong tương lai) như: trang thiết bị phục vụ sản xuất, đất đai, rừng trồng, nhà xưởng, kho bãi ...

Thứ hai, tiếp tục hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng lâm nghiệp cho các HTX lâm nghiệp để phục vụ các hoạt động trồng rừng, chăm sóc, khai thác, bảo vệ rừng theo các quy trình sản xuất lâm nghiệp bền vững để có chứng nhận chất lượng sản phẩm và có thể truy xuất nguồn gốc để phù hợp với các yêu cầu đặt ra của VPA/FLEGT trong thời gian tới.

Thứ ba, thúc đẩy việc chuyển đổi, giải thể HTX lâm nghiệp hoạt động yếu kém thông qua việc xây dựng tài liệu hướng dẫn, trình tự, thủ tục thực hiện giải thể, đăng ký lại, tổ chức lại hoạt động HTX theo Luật HTX mới.

Thứ tư, hỗ trợ nâng cao năng lực cho cán bộ HTX, quản lý HTX thông qua chương trình đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ; tập trung đào tạo nghiệp vụ về điều hành HTX, quản lí tài chính, phân tích thị trường, xây dựng phương án SXKD bền vững…

Thứ năm, xây dựng cơ chế khuyến khích, hỗ trợ HTX lâm nghiệp phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất cho thành viên và cộng đồng dân cư bên ngoài (sửa đổi Nghị định 193/2013/NĐ-CP cho phù hợp với tình hình mới); hỗ trợ kinh phí hoạt động trong giai đoạn đầu để HTX xây dựng thương hiệu, chứng nhận chất lượng sản phẩm của HTX, hỗ trợ HTX tham gia chuỗi liên kết giá trị (đặc biệt ưu tiên các hoạt động liên kết với doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm).

Thứ sáu, bố trí lồng ghép các nguồn kinh phí để hỗ trợ cho HTX in nhãn mác, bao bì nhằm thương mại hóa sản phẩm có chứng nhận; ưu tiên hỗ trợ HTX tham gia các chương trình quảng bá, hội chợ giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước.

Thứ bảy, tăng cường tuyên truyền, khen thưởng các cá nhân, mô hình HTX lâm nghiệp điển hình để động viên phong trào phát triển HTX.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư