Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Chủ Nhật, Ngày 23 tháng 06 năm 2024,
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua:
Ngân hàng ồ ạt phát hành trái phiếu; cổ đông chuẩn bị nhận "mưa" cổ tức
H.T - 16/06/2024 07:54
 
Ngân hàng áp đảo "chợ" trái phiếu trong tháng 5/2024, "khóa room" để tìm cơ hội thu hút vốn ngoại, giải pháp căn cơ cho thị trường vàng, cổ đông nhận mưa cổ tức... là các điểm nhấn đáng chú ý trên thị trường ngân hàng tuần qua.

Từ ngày 15/6, mua bán vàng không có hóa đơn điện tử, doanh nghiệp sẽ bị rút giấy phép

Đây là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa mới đây.

Cụ thể, bắt đầu từ ngày 15/6, đơn vị nào không thực hiện hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế trong mua bán vàng sẽ bị rút giấy phép.

Hiện cả nước có trên 12.500 doanh nghiệp có hoạt động mua bán chế tác vàng bạc và trên 5.000 hộ, cá nhân gia công vàng. 100% các doanh nghiệp đã áp dụng hóa đơn điện tử.Kiểm soát xuất hóa đơn kinh doanh vàngHóa đơn điện tử giúp quản lý thị trường vàng.

Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu tiếp tục rà soát kỹ lưỡng, đánh giá, tổng kết việc thực hiện Nghị định số 24/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, tăng cường thanh tra, giám sát, xử lý nghiêm các sai phạm. Thực hiện sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngành Thuế trên toàn quốc đã thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát việc thực hiện hóa đơn điện tử.
Muốn xuất hóa đơn cần có đủ thông tin của người mua, người bán. Nhưng cũng có khách hàng không chịu cung cấp thông tin. Tuy nhiên, doanh nghiệp vẫn có thể xuất hóa đơn điện tử, nhờ vào giải pháp hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền có kết nối với cơ quan thuế. Doanh nghiệp vẫn xuất hóa đơn từng lần bán cho khách lẻ.

Khi đi mua hay bán vàng thì người dân sẽ nhận về những tờ hóa đơn điện tử. Hiện nay Cục thuế TP Hà Nội đang tích cực tuyên truyền cho người dân đi mua vàng hãy nhận hóa đơn điện tử để đảm bảo quyền lợi cho chính mình.

Theo số liệu mới nhất từ Bộ tài chính, đã có 7.225 doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh vàng bạc áp dụng giải pháp hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng 1,34 triệu hóa đơn điện tử đã sử dụng.

Trước đó, NHNN TPHCM đã đưa ra đề xuất sửa đổi Nghị định 24/2-12/NĐ-CP về quản lý thị trường vàng với cơ chế phù hợp, trong đó cần hạn chế việc thanh toán mua bán vàng miếng bằng tiền mặt.Đề xuất hạn chế mua bán vàng miếng thanh toán bằng tiền mặt

Theo NHNN Chi nhánh TP.HCM, Nghị định 24 về việc quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã mang lại những kết quả tích cực, quan trọng đối với thị trường tiền tệ, ngoại hối, góp phần chống đô la hóa, vàng hóa trong nền kinh tế.

Tuy nhiên, NHNN Chi nhánh TP.HCM cho rằng, sau hơn 10 năm áp dụng, hiện Nghị định này đã và đang tồn tại nhiều hạn chế và vướng mắc gây nên những tồn tại, ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế, thị trường như chênh lệch giá vàng thế giới và trong nước ngày càng cao.

Những phát sinh tồn tại hạn chế từ thị trường đòi hỏi cần tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác quản lý về thị trường, giá vàng, nguyên liệu đầu vào, công tác thanh tra, kiểm tra, công tác truyền thông… Vì vậy, NHNN Chi nhánh TP.HCM kiến nghị đề xuất chỉnh sửa, bổ sung Nghị định 24 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng.

Cụ thể, NHNN TP.HCM kiến nghị chỉnh sửa bổ sung Nghị định 24 theo hướng đảm bảo đạt được mục tiêu quan trọng của Nghị định 24 trong suốt hơn 10 năm qua. Đó là không để thị trường vàng tác động ảnh hưởng đến tỷ giá, đến thị trường ngoại hối và mục tiêu chống USD hóa, vàng hóa.

Vàng vẫn là loại hàng hóa đặc biệt có quan hệ trực tiếp đến ngoại tệ và tiền đồng; quản lý hiệu quả thị trường vàng có vai trò quan trọng, do đó kiến nghị chỉnh sửa bổ sung các quy định liên quan đến quản lý thị trường vàng. Trong đó, xem xét đề xuất cơ chế quản lý phù hợp, hiệu quả tránh tạo ra độc quyền và lợi ích nhóm cho các đơn vị kinh doanh vàng miếng tự niêm yết giá.

Đặc biệt, NHNN TP.HCM kiến nghị NHNN nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách và quy định hạn chế việc thanh toán mua bán vàng miếng bằng tiền mặt nhằm phòng ngừa các nguy cơ, rủi ro phát sinh trong hoạt động kinh doanh vàng miếng của các đơn vị, đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật và phòng chống hoạt động rửa tiền.

Đồng thời, NHNN TP.HCM cũng đề xuất quy định trách nhiệm của các đơn vị liên quan đến quản lý thị trường vàng (gồm cả vàng miếng và sản xuất, gia công vàng trang sức mỹ nghệ). Trong đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với thị trường, đảm bảo kỷ cương, kỷ luật thị trường cũng như kiểm soát tốt nguồn nguyên liệu đầu vào và chất lượng sản phẩm.

Công tác thanh tra, kiểm tra không chỉ phát hiện ngăn ngừa và hạn chế sai phạm phát sinh, mà còn làm cơ sở để chỉnh sửa, bổ sung các quy định của pháp luật về lĩnh vực hoạt động này.

Khuyến nghị mua bán vàng miếng SJC tại các tổ chức được cấp phép

Ngân hàng Nhà nước TP.HCM vừa có văn bản gửi các tổ chức có liên quan về việc phối hợp thông tin tuyên truyền thực hiện đúng quy định pháp luật trong việc kinh doanh và mua bán vàng trên địa bàn TP.HCM.

Theo đó, ngân hàng Nhà nước TP.HCM khuyến cáo doanh nghiệp thực hiện đúng quy định trong kinh doanh, mua bán vàng. Hiện Ngân hàng Nhà nước đã và đang thực hiện các giải pháp để ổn định thị trường vàng, giảm chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới.

Các biện pháp này bước đầu đã phát huy hiệu quả, giá vàng trong nước giảm mạnh và tiệm cận dần với giá vàng thế giới. Đây là kết quả quan trọng, không chỉ tạo điều kiện cho thị trường vàng ổn định mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội đất nước.

Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước TP.HCM cho hay, để tiếp tục phát huy hiệu quả chính sách, đồng thời hạn chế và loại bỏ các yếu tố phi thị trường ảnh hưởng đến hiệu quả giải pháp ổn định thị trường vàng của ngân hàng trung ương, Ngân hàng Nhà nước TPHCM đề nghị các đơn vị, tổ chức phối hợp làm tốt công tác thông tin tuyên truyền để người dân, doanh nghiệp nắm, hiểu rõ quy định về hoạt động kinh doanh vàng; mua bán vàng miếng, vừa thực hiện đúng quy định pháp luật vừa hạn chế rủi ro và ngăn ngừa vi phạm pháp luật.

Cụ thể, người dân chỉ được thực hiện mua, bán vàng miếng SJC tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng (vàng trang sức mỹ nghệ) không được cấp phép kinh doanh mua bán vàng miếng thực hiện việc mua bán vàng miếng với cá nhân, tổ chức là trái quy định tại Nghị định số 88/2019/NĐ-CP ngày 14/11/2019.

Còn doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này (sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ; kinh doanh mua bán vàng trang sức mỹ nghệ; kinh doanh mua bán vàng miếng) tuân thủ nghiêm quy định của pháp luật về giấy phép hoạt động; giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ; cơ sở vật chất và phương án kinh doanh an toàn; giấy phép kinh doanh mua bán vàng miếng; chứng từ hóa đơn; nguồn gốc xuất xứ sản phẩm; chất lượng sản phẩm và công khai niêm yết giá.

Hoạt động đảm bảo tuân thủ đúng quy định pháp luật và công khai minh bạch không chỉ là trách nhiệm của tổ chức, cá nhân, mà còn phòng ngừa, hạn chế rủi ro do sai phạm, do liên quan tội phạm làm hàng nhái, hàng giả, buôn lậu và trốn thuế. Cuối cùng, vàng với tính chất là tài sản tài chính biến động, gắn liền với nhiều yếu tố của thị trường, người dân cần cân nhắc và thận trọng trong việc mua vàng, đầu tư vàng để tránh rủi ro do giá vàng biến động.

"Các doanh nghiệp được cấp phép cần thực hiện đúng quy định về kinh doanh mua bán vàng; lan tỏa ra cộng đồng và chung sức cùng ngành thực hiện tốt các biện pháp ổn định thị trường. Việc tập trung đông người, xếp hàng mua vàng dễ xảy ra trộm cướp, đặc biệt mua hộ vàng gây mất trật tự là không cần thiết, tiềm ẩn rủi ro và vi phạm pháp luật về đầu cơ, làm giá và ảnh hưởng đến lợi ích nền kinh tế", ông Lệnh nhấn mạnh. 

Tìm cách khai thác hiệu quả thị trường vàng

GS-TS Trần Thọ Đạt, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ cho rằng, ổn định thị trường vàng rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn là phải tìm cách khai thác thị trường vàng hiệu quả, phát triển ngành công nghiệp chế tác vàng nữ trang.

f
GS-TS Trần Thọ Đạt, thành viên Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ 

Có lẽ, chưa bao giờ, Chính phủ, ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Bộ tài chính quyết tâm bình ổn thị trường vàng như thời gian gần đây. Ông có nghĩ thế không?

Đúng thế. Khi giá vàng SJC trong nước tăng liên tục và có khoảng cách rất lớn với giá vàng trên thị trường thế giới, NHNN đã tổ chức nhiều phiên đấu thầu vàng, nhưng hiệu quả không đạt được như mong muốn, giá vàng SJC có giảm, nhưng vẫn còn chênh lệch rất lớn với giá vàng miếng trên thị trường thế giới.

Trước bối cảnh đó, NHNN đã thay đổi chiến lược bình ổn thị trường vàng bằng cách không tổ chức đấu thầu, mà cung vàng SJC ra thị trường thông qua 4 ngân hàng thương mại nhà nước và Công ty TNHH một thành viên Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC), khiến giá vàng thương hiệu này giảm mạnh.

Cùng với đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính (Tổng cục Thuế) bắt buộc hoạt động kinh doanh vàng phải sử dụng hóa đơn điện tử.

Mới đây nhất, ngày 5/6/2024, Chính phủ ban hành Nghị quyết 82/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 5/2024, nhấn mạnh việc sử dụng hóa đơn điện tử trong hoạt động kinh doanh, mua bán hàng hóa, dịch vụ, trong đó có kinh doanh vàng.

Ông có nghĩ rằng, Nghị quyết 82/NQ-CP đủ mạnh để thiết lập lại trật tự trên thị trường vàng? 

Tôi cho rằng, đã đủ mạnh khi Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính phối hợp chặt chẽ với NHNN tăng cường kiểm tra, giám sát, thực hiện nghiêm quy định về hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng. Các doanh nghiệp kinh doanh vàng phải kết nối hóa đơn điện tử với cơ quan thuế là trước ngày 15/6/2024. Hoạt động kinh doanh vàng là kinh doanh có điều kiện, sau thời điểm này (ngày 15/6/2024), cơ quan cấp giấy phép đăng ký kinh doanh kiên quyết rút, thu hồi ngay giấy phép kinh doanh đối với doanh nghiệp, đơn vị không thực hiện đúng quy định về hóa đơn điện tử kết nối với cơ quan thuế trong hoạt động kinh doanh, mua, bán vàng.

Các giải pháp trên là đủ mạnh để thiết lập lại thị trường vàng, đáp ứng nhu cầu mua vàng tích trữ của người dân, nhưng quan trọng hơn là phải khai thác được lượng vàng khổng lồ đang tích trữ trong dân đưa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo ra sản phẩm cho xã hội và phát triển được công nghiệp chế tác vàng trang sức.

Cũng có nhiều đề xuất muốn khai thác lượng vàng tích trữ trong dân, nên đề xuất cho phép ngân hàng huy động vàng với lãi suất hợp lý? 

Với nguồn vàng trong dân vô cùng lớn không được khai thác, đưa vào nền kinh tế để tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đã có nhiều chuyên gia kiến nghị cho phép ngân hàng huy động vàng.

Tuy nhiên, việc này không hề đơn giản, vì ngân hàng không thể huy động vàng của người dân và cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp vay vàng, mà phải bán ra thị trường lấy tiền đồng cho vay. Khi người dân gửi vàng lấy gốc và lãi, thì ngân hàng lấy vàng ở đâu để trả, ngoài việc phải đi mua lại vàng trên thị trường? Bài toán cho ngân hàng huy động vàng có quá nhiều tham số, nên dù được đặt ra từ nhiều năm trước, nhưng đến nay, bài toán này vẫn bỏ ngỏ, vẫn chỉ là ý tưởng. Đó là chưa kể, nếu quản lý không chặt dễ dẫn đến vàng hóa nền kinh tế.

Để giải quyết bài toán đó, nhiều chuyên gia đề xuất cho phép ngân hàng huy động vàng tài khoản, thay vì vàng vật chất. Ông nghĩ ý tưởng này thế nào? 

Huy động vàng tài khoản hiểu nôm na là người dân có 80 triệu đồng, tương đương với một cây vàng, họ không muốn gửi bằng tiền vì sợ mất giá và tâm lý giữ vàng còn rất lớn, nên người ta gửi 80 triệu đồng vào ngân hàng và quy đổi ra một cây vàng. Khi người dân lấy gốc và lãi, thì ngân hàng quy đổi ra giá vàng tại thời điểm đó để trả cả gốc và lãi bằng tiền đồng. Phương thức này đạt được rất nhiều mục tiêu, như giảm nhu cầu tích trữ vàng vật chất, huy động được vàng trong dân chúng đưa vào nền kinh tế, nên về lâu dài cũng phải nghiên cứu và có thể thí điểm.

Tôi cũng xin lưu ý, một số nước áp dụng phương thức huy động vàng tài khoản, nhưng sau một thời gian thực hiện không thấy hiệu quả, nên đã dừng lại. Do vậy, Việt Nam phải hết sức cẩn trọng, vì huy động vàng tài khoản là kênh đầu tư tài chính mới, rất phức tạp.

Dẫu vậy, cũng cần phải nghiên cứu các phương thức hiệu quả nhất để khai thác nguồn tài chính dưới dạng vàng vật chất vô cùng lớn trong dân.

Thế còn phát triển ngành công nghiệp chế tác vàng trang sức thì sao, thưa ông? 

Vàng trang sức là hàng hóa, là loại nữ trang, có sức hấp dẫn đặc biệt với phụ nữ vì ai cũng có nhu cầu làm đẹp. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta mua bán vàng trang sức như mua bán hàng hóa bình thường, thông dụng. Với Việt Nam, vàng trang sức là của để dành, tài sản phòng thân, của hồi môn. Với dân số trăm triệu người, thị trường vàng trang sức ở Việt Nam vô cùng lớn.

Khi coi vàng trang sức là một loại nữ trang, thì cần phải phát triển ngành công nghiệp chế tác vàng trang sức. Theo đó, NHNN cho phép doanh nghiệp có đủ điều kiện nhập khẩu vàng miếng về chế tác thành vàng trang sức phục vụ thị trường.

Singapore có dân số chỉ trên 6 triệu người, nhưng doanh thu từ ngành công nghiệp chế tác vàng bạc đạt 6-7 tỷ USD. Còn người dân Việt Nam có tay nghề thủ công mỹ nghệ rất cao, nhưng doanh thu của ngành công nghiệp chế tác vàng bạc rất ít. Vì thế, một mặt lập lại trật tự thị trường vàng, đồng thời phải phát triển ngành công nghiệp chế tác vàng trang sức.

Ngân hàng tăng tốc tín dụng nửa cuối năm: “Cửa” đẩy vốn sáng nhất vẫn là bất động sản

Tín dụng khởi sắc rõ rệt trong 2 tháng gần đây, đặc biệt nhu cầu vay vốn đầu tư bất động sản phục hồi. Nhiều ngân hàng lạc quan về khả năng tín dụng tăng tốc nửa cuối năm.

Ông Nguyễn Thanh Tùng, Tổng giám đốc ngân hàng Vietcombank cho hay, tính đến cuối tháng 5/2024, tín dụng của Vietcombank mới tăng 1,6% so với đầu năm, dù Ngân hàng đã thực hiện rất nhiều biện pháp thúc đẩy tín dụng như: cải tiến quy trình cấp tín dụng, áp dụng các giải pháp công nghệ, tăng giải ngân trực tuyến… Nguyên nhân là sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp.

Tuy tín dụng tăng thấp, song so với 3 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng âm, thì tín dụng 2 tháng qua của Vietcombank đã bật lên đáng kể. Tổng giám đốc Vietcombank cho hay, trong 3 tháng đầu năm, tín dụng ngân hàng này suy giảm chủ yếu do cầu tín dụng bất động sản cá nhân giảm mạnh. Tuy vậy, trong tháng 4 và tháng 5/2024, thị trường bất động sản ấm lên, cầu tín dụng của người dân cũng tăng trở lại.

Với tình hình phục hồi tín dụng hiện nay, ông Tùng lạc quan vào tín dụng cả năm. Đặc biệt, mới đây, Vietcombank làm đầu mối thu xếp vốn, cùng với BIDV và VietinBank tài trợ 1,8 tỷ USD cho Dự án Sân bay Long Thành. Trong đó, riêng Vietcombank tài trợ 1 tỷ USD.

“Mặc dù tín dụng 5 tháng đầu năm tăng chưa được như kỳ vọng, song Vietcombank không vì vội vàng tăng trưởng tín dụng mà không kiểm soát chất lượng tín dụng. Chúng tôi vẫn sẽ tiếp tục lựa chọn các dự án tốt phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, định hướng tín dụng cuối năm nay tăng 10-15%”, ông Nguyễn Thanh Tùng cho biết.

Trong khi đó, tại một số ngân hàng TMCP tư nhân, tín dụng tăng mạnh hơn. Ông Hồ Nam Tiến, Tổng giám đốc LPBank cho hay, tính đến cuối tháng 5/2024, tín dụng của ngân hàng này đã tăng 10%. Năm nay, ngân hàng này đặt mục tiêu lợi nhuận tăng gần 50%, tín dụng tăng 15,9%.  

Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), đến cuối tháng 5/2024, tín dụng toàn hệ thống tăng 2,41% so với cuối năm ngoái, vẫn tăng đáng kể so với cùng kỳ (tăng 12,8%).

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng,  tín dụng tăng ở mức độ trên là phù hợp với nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế. Ngoài ra, tín dụng cũng đang phục hồi rõ rệt, tăng trưởng tháng sau cao hơn tháng trước. Nếu tính 2 tháng đầu năm, tín dụng chỉ tăng 0,02%, thì hiện đã tăng 2,41%, dự báo đến cuối tháng 6/2024 tăng 4-4,5%. Nhiều khả năng, tín dụng cả năm sẽ tăng 13-14%.

Năm 2024, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 15%. NHNN kỳ vọng, nửa đầu năm, tín dụng toàn hệ thống sẽ tăng 5-6%. Trong công văn gửi các tổ chức tín dụng, NHNN yêu cầu các ngân hàng giữ ổn định lãi suất huy động, giảm 1-2% lãi vay để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.

Dù vậy, trên thị trường, lãi suất vẫn đang nóng lên. Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho rằng, ngân hàng chỉ tăng nhẹ lãi suất để người gửi đỡ thiệt thòi, mặt bằng lãi suất vẫn đang ở mức thấp trong nhiều năm qua. “Thông thường, lãi suất tăng có thể là do sức ép của lạm phát hoặc cầu tín dụng tăng. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, lãi suất trên thị trường tăng không phải do sức ép lạm phát, mà là do cầu vốn đã bắt đầu gia tăng”, ông Nghĩa nhận định.

Theo chuyên gia này, “cửa” đẩy vốn khả quan nhất hiện nay là lĩnh vực bất động sản, đặc biệt là nhà ở giá rẻ. Tuy nhiên, muốn đẩy mạnh tín dụng bất động sản, cần thiết kế lại chính sách. Theo đó, phải thay đổi quan điểm đẩy mạnh nhà ở xã hội vì vướng quá nhiều điều kiện, thủ tục, thay vào đó là tập trung đẩy mạnh nhà ở giá rẻ.

Ông Nghĩa cho rằng, nếu chỉ gói gọn trong nhà ở xã hội như hiện nay, sẽ dẫn tới tình trạng bế tắc, vì người có khả năng mua nhà thì không mua được nhà, còn người nằm trong đối tượng mua nhà ở xã hội lại không có khả năng thanh toán.

TS. Cấn Văn Lực cũng tin tưởng thị trường bất động sản sẽ phục hồi tốt hơn nhờ sự hoàn thiện hành lang pháp lý và yếu tố vĩ mô tích cực, từ đó tín dụng sẽ hồi phục tốt hơn. “Thời điểm áp dụng các luật mới ban hành như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng… được đẩy lên sớm hơn 5 tháng sẽ góp phần thúc đẩy phục hồi thị trường bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp và hoạt động tài chính - ngân hàng trở nên lành mạnh, bền vững hơn”, ông Lực đánh giá.

Theo UOB, tín dụng nửa cuối năm 2024 sẽ được hỗ trợ bởi lãi suất được giữ ổn định ở mức thấp. Ngoài ra, nền kinh tế cũng đang phục hồi, khả năng GDP Việt Nam sẽ tăng lên 6% trong quý II/2024 và duy trì mức này cho cả năm 2024. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) cho lĩnh vực sản xuất đã tăng tháng thứ hai liên tiếp trong tháng 5 đầu năm 2024 và đạt mức 50,3 điểm.

Đồng thời, sản xuất công nghiệp tăng 8,9% so với cùng kỳ trong tháng 5, đánh dấu tháng tăng trưởng thứ ba liên tiếp trong những tháng đầu năm 2024. Cùng với đó, xuất khẩu hàng hóa ghi nhận tháng thứ ba tăng trưởng hai con số trong tháng 5, thu hút đầu tư nước ngoài tiếp tục khả quan so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. 

Trong tháng 5/2024, lượng trái phiếu do ngân hàng phát hành chiếm tới 87% tổng giá trị trái phiếu phát hành riêng lẻ.

Báo cáo của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA) cho thấy, tính đến ngày công bố thông tin 1/6/2024, có 19 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ trị giá 16.695 tỷ đồng trong tháng 5/2024 và không có đợt phát hành ra công chúng nào.

Trong tháng 5/2024, trái phiếu ngân hàng chiếm tới 87% tổng giá trị phát hành, tăng trưởng đột biến so với cùng kỳ năm ngoái, ngược với tình trạng “đóng băng” 3 tháng đầu năm. Các ngân hàng đẩy mạnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp 2 tháng qua là: Techcombank, BIDV, MB, HDBank, MSB, Shinhan Việt Nam…

TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế cho rằng, sở dĩ các ngân hàng đẩy mạnh phát hành trái phiếu trở lại là nhằm tăng vốn cấp hai để đáp ứng chuẩn Basel II và Basel III.

Các chuyên gia VIS dự báo, khối ngân hàng sẽ tiếp tục tăng mạnh phát hành trái phiếu trong năm 2024. Quy định chặt chẽ hơn về tỷ lệ vốn giải ngân cho vay trung và dài hạn sẽ thúc đẩy ngân hàng phát hành trái phiếu nhiều hơn để bổ sung cơ cấu nguồn vốn dài hạn. Đồng thời, trong môi trường lãi suất thấp, ngân hàng sẽ có động lực để mua lại và phát hành trái phiếu có lãi suất hấp dẫn hơn.

Ngược với trái phiếu ngân hàng, trái phiếu bất động sản vẫn phục hồi khá chậm. Theo thống kê của VBMA, trong tháng 5/2024, trái phiếu xây dựng và bất động sản chỉ chiếm 12,5% tổng giá trị phát hành. Doanh nghiệp bất động sản duy nhất phát hành trái phiếu khối lượng lớn là Vingroup. Dù vậy, tính từ đầu năm đến nay, trái phiếu bất động sản vẫn chiếm tới 47,6% tổng giá trị phát hành và tăng khá mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.

Tính chung từ đầu năm đến nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp tăng 71% so với cùng kỳ, lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong tháng 5/2024 tăng gấp 5 lần so với giá trị phát hành tháng 5/2023. Tỷ lệ trái phiếu phát hành ra công chúng đang tăng nhanh, hiện chiếm 14,8% tổng giá trị phát hành (tăng so với mức 11,9% cuối năm 2023).

TS. Cấn Văn Lực cho rằng, thị trường trái phiếu doanh nghiệp bắt đầu ấm lên là do nhu cầu vốn của nền kinh tế vẫn rất lớn, đồng thời niềm tin của các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư tổ chức bắt đầu quay lại.

Dù vậy, các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp bất động sản đang phải đối mặt với áp lực đáo hạn trái phiếu lớn. Trong phần còn lại của năm 2024, tổng giá trị trái phiếu đến hạn là 163.860 tỷ đồng. Trong đó, 42% giá trị trái phiếu sắp đáo hạn thuộc nhóm bất động sản với 69.627 tỷ đồng, theo sau là nhóm ngân hàng với gần 30.498 tỷ đồng, chiếm 19%.

Thúc đẩy thị trường trái phiếu hồi phục nhanh hơn

Theo VIS Rating, rủi ro trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã đạt đỉnh và bắt đầu giảm dần. Một chu kỳ phát triển mới, an toàn hơn, lành mạnh hơn đã mở ra. Tổng quy mô lưu hành dần ổn định nhờ lượng phát hành mới hồi phục. 

Dù vậy, để thị trường trái phiếu hồi phục nhanh chóng và trở thành kênh dẫn vốn trung, dài hạn quan trọng của doanh nghiệp, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, Chính phủ cần rà soát Nghị định 65/2022/NĐ-CP. Nghị định này đã được quay lại áp dụng đầy đủ từ đầu năm nay, sau một thời gian giãn, hoãn. Tuy nhiên, trong bối cảnh chúng ta muốn đẩy nhanh tốc độ hồi phục của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, cần xem xét, rà soát lại nghị định này.

“Với quy mô thị trường hiện nay, chúng ta cần cân nhắc điều chỉnh theo lộ trình phù hợp để vừa hỗ trợ thị trường phát triển, vừa đảm bảo an toàn và lành mạnh trong thời gian tới. Nếu áp dụng ngay những tiêu chuẩn khắt khe của Nghị định 65/2022/NĐ-CP, thì sự hồi phục của thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ còn gặp nhiều thách thức, việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp qua kênh này sẽ còn khó khăn”, TS. Cấn Văn Lực khuyến nghị.  

TS. Lê Xuân Nghĩa, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia cũng cho rằng, thị trường trái phiếu đang có dấu hiệu ấm lên cùng dấu hiệu phục hồi của thị trường bất động sản và của nền kinh tế. Dù vậy, áp lực đáo hạn của doanh nghiệp rất lớn, nhất là trong năm 2024-2025, khi các khoản trái phiếu giãn nợ đến hạn phải trả.

Theo chuyên gia này, cần gấp rút tháo gỡ khó khăn về pháp lý cho các Dự án bất động sản, đưa các dự án này đi vào hoạt động để giảm áp lực vốn cho doanh nghiệp. Đồng thời, cần có cơ chế thúc đẩy phân khúc nhà giá rẻ, nhà ở xã hội để giải bài toán vốn cho thị trường bất động sản.

Về lâu dài, các chuyên gia đánh giá, dư địa phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn rất lớn. Tuy nhiên, vấn đề là cơ quan quản lý cần sớm sửa đổi Nghị định 65/2022/NĐ-CP, có chính sách phát triển trái phiếu xanh, thu hút nhà đầu tư tổ chức tham gia thị trường trái phiếu… 

Ngân hàng khóa "room" tìm cơ hội hút vốn ngoại

Để tính đường dài, nhiều ngân hàng đang có xu hướng chọn phương án khóa “room” ngoại ở mức thấp hơn mức cho phép tối đa của cơ quan quản lý 30% hiện hành.

Chia sẻ về kế hoạch nới thêm room ngoại hoặc tìm kiếm cổ đông chiến lược ngoại trong thời gian tới, ông Hồ Hùng Anh, Chủ tịch HĐQT Techcombank (mã: TCB) cho biết, hiện room ngoại của Techcombank là 22%, tỷ lệ này cho phép ngân hàng phát hành 10% cho cổ đông chiến lược.

Techcombank cũng đang xem xét việc phát hành cho cổ đông chiến lược. Bởi thông thường phát hành cho cổ đông chiến lược thì giá cổ phiếu cao hơn, điều này mang lại lợi ích chung cho các cổ đông.

Năm vừa rồi VPBank (mã: VPB) đã làm thành công với SMBC, Techcombank cũng đang nghiên cứu cơ hội như vậy. Theo đó, Techcombank đang tìm kiếm cơ hội và kỳ vọng khi thị trường tốt hơn thì sẽ gặp được. 

Quả thực, ngành ngân hàng vừa chứng kiến thương vụ bán vốn ngoại, giá trị khủng lên tới cả tỷ USD, mở ra các cơ hội lớn về nguồn vốn, công nghệ và quản trị.

Cụ thể, VPBank vừa hoàn tất giao dịch phát hành riêng lẻ 15% cổ phần cho Ngân hàng Sumitomo Mitsui Banking Corporation (SMBC) của Nhật Bản. Giao dịch trị giá hơn 35,9 nghìn tỷ đồng (tức gần 1,5 tỷ USD). Dự báo làn sóng bán vốn ngoại còn sôi động.

HDBank (mã: HDB) cũng vừa công bố tài liệu xin ý kiến cổ đông về việc tạm khóa “room ngoại” xuống 17,5%, nhằm chuẩn bị sẵn sàng cho các Dự án chiến lược.

Theo tài liệu được công bố, nhằm triển khai có hiệu quả các hạng mục thuộc chiến lược phát triển của HDBank trong thời gian tới, đảm bảo tuân thủ các quy định và phù hợp với nhu cầu đầu tư của các cổ đông nước ngoài, HDBank trình ĐHCĐ thông qua việc điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài còn 17,5%, giảm từ mức 20% hiện được quy định tại Điều lệ.

Tỷ lệ này có thể được điều chỉnh theo quyết định của ĐHĐCĐ trên cơ sở phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan.

HDBank là một trong số ít ngân hàng lớn chưa lựa chọn cổ đông chiến lược nước ngoài. Ngân hàng có hoạt động kinh doanh tăng trưởng cao và liên tục trong hành trình 10 năm đổi mới, cùng dư địa phát triển còn nhiều, đặc biệt ở các mảng ngân hàng số, tài chính tiêu dùng, bảo hiểm, ngân hàng đầu tư, chứng khoán, ngân hàng nông thôn…

Chia sẻ tại cuộc gặp với các nhà đầu tư vừa qua, ông Hoàng Thanh Tùng, Giám đốc Ban quan hệ đầu tư của HDBank cho biết, ngân hàng này đã có sẵn sự chuẩn bị cần thiết cho đối tác chiến lược, để dành khoảng 10% room ngoại cho việc phát hành tăng vốn.

Kế hoạch bán vốn cho nhà đầu tư chiến lược hoàn toàn có thể triển khai khi điều kiện thị trường thuận lợi và HDBank tìm được những đối tác phù hợp. Theo ông Tùng, thời gian qua HDBank đã nhận được sự quan tâm từ một số đối tác nước ngoài đến từ Hàn Quốc, châu Âu và Mỹ.

Việc lựa chọn nhà đầu tư để phát hành tăng vốn, thu hút cổ đông chiến lược luôn nằm trong định hướng của ngân hàng nhằm nâng cao năng lực tài chính để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng, đồng thời bảo đảm chỉ tiêu an toàn vốn và thanh khoản.

Chủ tịch SHB Đỗ Quang Hiển từng thông tin với cổ đông, sẽ hoàn tất việc chào bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài trong năm 2024. Trước đó, tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2023, cổ đông SHB cũng đã thông qua việc tiếp tục triển khai tăng vốn từ việc phát hành cổ phiếu dành cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư chiến lược nước ngoài.

Hồi tháng 7/2023, Reuters từng dẫn nguồn tin thân cận cho biết, SHB đang trong quá trình đàm phán bán 20% vốn cho nhà đầu tư nước ngoài. Một số nhà đầu tư từ Hàn Quốc và Nhật Bản đã tiếp cận SHB trong thương vụ này, với định giá ngân hàng có thể đạt mức 2 - 2,2 tỷ USD. Nguồn tin cũng cho biết, thỏa thuận này dự kiến được hoàn tất trong năm 2023 hoặc đầu năm 2024 và cần được sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

Cũng trong tháng 7/2023, HĐQT SeABank đã thông qua kế hoạch phát hành riêng lẻ thêm tối đa 94,6 triệu cổ phiếu, tương đương 4,6366% lượng cổ phiếu đang lưu hành để chào bán cho 1 nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, dự kiến là quỹ Norfund (The Norwegian Investment Fund for developing countries - Quỹ đầu tư Na Uy cho các nước đang phát triển). Thương vụ này cũng sẽ đem về cho SeABank tối thiểu 1.217 tỷ đồng và tối đa là 3.503 tỷ đồng. 

Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, việc tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã mang lại những thay đổi tích cực về tài chính, công nghệ, quản trị và điều hành tại các tổ chức tín dụng theo hướng tiếp cận gần hơn với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Vả lại, việc thu hút thêm vốn ngoại sẽ nâng cao năng lực tài chính cho các nhà băng. Thực tế, dù sức khỏe tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam đã được cải thiện, nhưng nhìn chung, vốn của ngân hàng Việt vẫn mỏng, hệ số an toàn vốn (CAR) thấp hơn nhiều so với khu vực. 

Cổ đông ngân hàng nhận cơn “mưa” cổ tức

Cổ đông ngân hàng sắp nhận được cơn “mưa” cổ tức bằng tiền mặt và cổ phiếu khi các ngân hàng đã chốt quyền chi trả cổ tức để tăng mạnh vốn, nâng cao năng lực tài chính.

Cụ thể, SeABank (mã: SSB) đã hoàn tất việc tăng vốn điều lệ lên 24.957 tỷ đồng, thông qua đợt phát hành 42 triệu cổ phiếu ESOP năm 2023 cho hơn 2.000 cán bộ nhân viên. NHNN cũng ban hành quyết định chấp thuận điều chỉnh mức vốn điều lệ trên giấy phép hoạt động của SeABank từ 24.537 tỷ đồng lên 24.957 tỷ đồng.

Theo kế hoạch được đại hội cổ đông thường niên 2024 thông qua, trong năm nay SeABank dự kiến tiếp tục tăng vốn lên 30.000 tỷ đồng theo các phương thức như phát hành cổ phiếu để trả cổ tức và phát hành cổ phiếu để tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ sở hữu với tổng tỷ lệ gần 14%, phát hành cổ phiếu ESOP năm 2024, chào bán cổ phiếu theo hình thức riêng lẻ hoặc phát hành cổ phiếu để hoán đổi nợ.

PGBank (mã: PGB) cũng tăng vốn điều lệ sau khi phát hành thành công 120 triệu cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu, nâng vốn điều lệ lên 4.200 tỷ đồng. Lần cuối PGBank tiến hành tăng vốn điều lệ là vào năm 2012 khi thực hiện việc phát hành 64 triệu cổ phiếu mới cho cổ đông hiện hữu.

Tương tự, ACB vừa có báo cáo về kết quả đợt phát hành cổ phiếu để trả cổ tức. Theo đó, ngân hàng đã phát hành 582,6 triệu cổ phiếu để trả cổ tức, tương ứng tỷ lệ 15% (cổ đông nắm giữ 100 cổ phiếu sẽ nhận được 15 cổ phiếu mới).

Sau đợt phát hành, số cổ phiếu đang lưu hành của ACB tăng từ 3,884 tỷ cổ phiếu lên 4,447 tỷ cổ phiếu. Ngày kết thúc đợt phát hành là 3/6. Dự kiến cổ phiếu sẽ được chuyển giao trước ngày 30/6, sau khi Tổng Công ty Lưu ký và Bù trừ chứng khoán Việt Nam điều chỉnh Giấy chứng nhận Đăng ký Chứng khoán.

Như vậy, gần 583 triệu cổ phiếu ACB sẽ về tài khoản cổ đông trong ít ngày tới. Sau khi hoàn tất việc phát hành, vốn điều lệ của ACB sẽ tăng lên 44.667 tỷ đồng, chính thức vượt qua Agribank, trở thành ngân hàng có quy mô vốn cao thứ 6 toàn hệ thống, sau VPBank, BIDV, Vietcombank, VietinBank và MB. Tuy nhiên, ACB dự kiến sẽ tụt xuống hạng 8 vào cuối năm nay khi Agribank và Techcombank hoàn tất kế hoạch tăng vốn.

Trước đó, ACB (mã: ACB) đã chốt danh sách cổ đông hưởng quyền nhận cổ tức năm 2023 bằng tiền (với tỷ lệ 10%) vào ngày 3/6, tức 1 cổ phiếu được nhận 1.000 đồng. Số tiền mà ACB ddùng để chia cổ tức là 3.884 tỷ đồng dự kiến được thanh toán vào ngày 13/6. Đồng thời, ACB phát hành hơn 582,6 triệu cổ phiếu để trả cổ tức theo tỷ lệ 15% (người sở hữu 100 cổ phiếu được nhận 15 cổ phiếu mới).

TPBank (mã: TPB) vừa thông qua việc triển khai phương án chi trả cổ tức bằng tiền mặt trong năm 2024 với tỷ lệ 5% (1 cổ phiếu được nhận 500 đồng). Ngày đăng ký cuối cùng thực hiện quyền cho cổ đông hiện hữu là 21/6 và thời gian thanh toán dự kiến vào 11/7.

Trước đó tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024, ban lãnh đạo TPBank đã bổ sung tờ trình chia cổ tức tiền mặt và chia cổ tức bằng cổ phiếu để tăng vốn điều lệ năm 2024, sau đó được đông đảo cổ đông thông qua. Lãnh đạo ngân hàng nói việc chia cổ tức bằng tiền mặt là một sự khích lệ cho các cổ đông.

Hiện TPBank có hơn 2,2 tỷ cổ phiếu đang lưu hành, theo đó số tiền mà nhà băng dự kiến chi trong đợt này hơn 1.100 tỷ đồng. Nguồn chi được lấy từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối đến cuối năm ngoái, trên báo cáo tài chính đã kiểm toán.

Ngoài ra, TPBank còn có kế hoạch phát hành tối đa 440,3 triệu cổ phiếu mới để trả cổ tức cho cổ đông theo tỷ lệ 20% (cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu tại ngày chốt quyền sẽ được nhận 20 cổ phiếu mới). Việc phát hành dựa trên khuyến khích của NHNN, trên cơ sở tình hình kinh doanh thực tế, mở rộng quy mô hoạt động...

Vốn điều lệ của ngân hàng theo đó sẽ tăng thêm hơn 4.400 tỷ lên tối đa 26.419 tỷ đồng. Thời gian thực hiện sẽ phụ thuộc vào quá trình phê duyệt hồ sơ của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật hiện hành.

Không chỉ chia cổ tức bằng tiền mặt và chia thưởng bằng cổ phiếu với tỷ lệ cao. Trong ngày 6/6 vừa qua, UBCKNN đã công bố quyết định chấp thuận cho Techcombank (mã: TCB) tăng vốn điều lệ từ 35.225 tỷ đồng lên 70.450 tỷ đồng bằng hình thức phát hành cổ phiếu từ nguồn vốn chủ sở hữu (cổ phiếu thưởng). Tỷ lệ phát hành dự kiến là 100%, tức mỗi cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu được hưởng quyền sẽ được nhận thêm 100 cổ phiếu mới.

Trước đó, Techcombank đã được các cơ quan quản lý chấp thuận cho chia cổ tức năm 2023 bằng tiền mặt với tỷ lệ 15% - mức cao nhất hệ thống. Số tiền cổ tức này đã về tài khoản nhà đầu tư từ đầu tháng 6 này. Với mức chia tiền mặt 15% và thưởng cổ phiếu tỷ lệ 100%, Techcombank là ngân hàng duy nhất chi trả cho cổ đông với tỷ lệ cao như vậy trong năm nay. Đồng thời, kế hoạch phát hành để tăng vốn lên trên 70 nghìn tỷ đồng cũng sẽ đưa Techcombank nâng quy mô vốn điều lệ lên top đầu hệ thống.

MSB (mã: MSB) chuẩn bị phát hành 600 triệu cổ phiếu trả cổ tức, tăng vốn lên 26.000 tỷ đồng. Cụ thể, MSB dự kiến phát hành thêm tối đa 600 triệu cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 30% (cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu sẽ nhận 30 cổ phiếu mới), giúp vốn điều lệ tăng từ 20.000 tỷ đồng lên 26.000 tỷ đồng. Dự kiến thời gian thực hiện là trong năm 2024, sau khi có chấp thuận của cơ quan quản lý Nhà nước.

Nguồn vốn sử dụng để tăng vốn điều lệ là lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, bao gồm lợi nhuận sau thuế năm 2023 sau khi đã trích lập đầy đủ các quỹ và lợi nhuận những năm trước để lại (gần 8.000 đồng theo báo cáo tài chính hợp nhất 2023).

Mục đích phát hành là nhằm củng cố vị thế cạnh tranh của MSB nhờ tăng quy mô vốn điều lệ, củng cố bộ đệm vốn và nâng cao các chỉ tiêu an toàn tài chính, hỗ trợ nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn, nâng cấp cơ sở vật chất và đầu tư hệ thống cho ngân hàng. Tuy nhiên, do tăng vốn thông qua phát hành cổ phiếu để trả cổ tức nên tỷ lệ sở hữu của các cổ đông lớn tại MSB không thay đổi.

Theo công bố của MSB, đến ngày 31/3, MSB có một cổ đông lớn trong nước là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), nắm 6,05% vốn điều lệ. VNPT dự kiến sẽ nhận thêm hơn 36 triệu cổ phiếu từ đợt phát hành này. MSB hiện có 6 cổ đông nước ngoài sở hữu từ 2% đến dưới 5% vốn điều lệ, nắm tổng cộng 23,89% vốn. Những cổ đông nước ngoài khác nắm 6,07% vốn của ngân hàng. Các cổ đông nước ngoài dự kiến sẽ nhận thêm gần 180 triệu cổ phiếu từ đợt phát hành trên.

Cùng với Techcombank, trong năm nay, 3 Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước là Vietcombank, BIDV, VietinBank đều có kế hoạch tăng vốn và đã được cổ đông thông qua tại kỳ đại hội vừa qua, hiện chờ cơ quan quản lý chấp thuận.

Thực tế, việc chia cổ tức bằng cả tiền mặt và cổ phiếu đã được nhiều ngân hàng áp dụng vào thời điểm trước khi dịch Covid-19 xuất hiện. Nhưng từ năm 2020-2022, theo chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng hạn chế chia cổ tức bằng tiền mặt để dành nguồn lực giảm lãi suất cho vay hỗ trợ người dân và doanh nghiệp giai đoạn 3 năm Covid-19 (từ 2019 - 2021).

Tuy nhiên, từ đầu năm 2023, tại Chỉ thị số 01 về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước không còn yêu cầu các nhà băng không chia cổ tức bằng tiền mặt. Như vậy, "vòng kim cô" đã được gỡ, làn sóng chia cổ tức tiền mặt bắt đầu quay lại trong 2 năm gần đây. Dù được chia cổ tức cả bằng tiền mặt và cổ phiếu, song nhiều cổ đông của ngân hàng cũng băn khoăn về việc chia cổ tức để tăng vốn sẽ khiến cổ phiếu bị loãng, hay nói cách khác là giá cổ phiếu sẽ giảm.

Thị trường quản lý tài sản tỷ USD của Việt Nam cần thêm công cụ và luật chơi
Tài sản được quản lý ở Việt Nam đạt khoảng 45-55 tỷ USD, chiếm 20% tổng tài sản tài chính của người dân. TS. Lê Minh Nghĩa - Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam trao đổi với báo Đầu tư về giải pháp phát triển thị trường này. 
f
TS. Lê Minh Nghĩa - Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam
Ông đánh giá như thế nào về tiềm năng thị trường quản lý tài sản cá nhân tại Việt Nam?

Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới. Năm 2023 tăng trưởng kinh tế nước ta ước đạt 5,05%, cao gấp 1,5 lần so với mức tăng trưởng 2,9% của kinh tế toàn cầu. Với mức tăng trưởng GDP thực trung bình là 6,1% trong một thập niên trở lại đây, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều nước trên thế giới chỉ có thể mơ ước.

Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP bình quân đầu người của Việt Nam cũng tăng nhanh. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá trung tâm năm 2023, đạt 4.284 USD, cao hơn năm trước (4.109 USD); nếu tính bằng USD theo tỷ giá sức mua tương đương thì đạt khoảng 13.000 USD.

Tầng lớp trung lưu và người giàu đang gia tăng. Báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, tầng lớp trung lưu (có mức chi tiêu bình quân đầu người từ 11-110 USD/ngày) đang hình thành nhanh chóng ở các đô thị lớn, hiện chiếm khoảng 13% dân số và sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026.

Theo báo cáo của Công ty Knight Frank - đơn vị tư vấn và thẩm định giá, nghiên cứu thị trường, số người siêu giàu tại Việt Nam (có từ 30 triệu USD trở lên) trong giai đoạn 2017-2022 đã tăng từ 583 người lên 1.059 người, tăng 82% chỉ sau 5 năm. Công ty này dự báo đến năm 2027, số người siêu giàu tại Việt Nam sẽ chạm mốc 1.300 người, tăng 22% so với năm 2022.

Ngày càng có nhiều người giàu hơn, cũng có nghĩa nhu cầu về quản lý tài sản tại Việt Nam sẽ ngày càng tăng. Theo Báo cáo của McKinsey, tổng tài sản tài chính của người Việt Nam đến năm 2022 đạt hơn 300 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng trung bình trong giai đoạn 2011 - 2021 là 15%, và ước tính sẽ đạt hơn 600 tỷ USD vào năm 2027. Trong khi đó, giá trị tài sản tài chính được quản lý ước tính mới chỉ đạt 45 - 55 tỷ USD vào năm 2022 và tăng lên 110 - 130 tỷ USD vào năm 2027 (mới chỉ chiếm khoảng 20% so với tổng tài sản tài chính của người Việt Nam). Việt Nam được đánh giá là một trong hai thị trường quản lý tài sản phát triển nhất khu vực và còn khoảng trống rất lớn để phát triển trong thời gian tới.

Triển vọng lớn như vậy song quy mô thị trường quản lý tài sản của Việt Nam còn nhỏ bé, nguyên nhân vì sao, theo ông?

Mặc dù có tiềm năng to lớn, nhưng dịch vụ quản lý tài sản vẫn chưa phát triển tương xứng và chưa theo kịp nhu cầu tại Việt Nam. Những thách thức bắt nguồn từ bên trong các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính và cả từ phía khách hàng.

Thứ nhất, khách hàng còn thiếu niềm tin vào các tổ chức tài chính. Họ nghi ngờ việc các tổ chức tài chính thực sự quan tâm và đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Kết quả khảo sát của chúng tôi vào năm 2023 cũng hỗ trợ cho nhận định này. Các chuyên viên quan hệ khách hàng tại các định chế tài chính có xu hướng thúc đẩy các sản phẩm có lợi cho họ, chứ không phải cho khách hàng. Các khoản phí ẩn cũng có thể làm nảy sinh cảm giác rằng cá tổ chức tài chính không thực sự minh bạch về giá. Khi có suy nghĩ như vậy, khách hàng sẽ tiếp tục gửi phần lớn tài sản của mình vào các sản phẩm ngân hàng truyền thống như là tiền gửi tiết kiệm hoặc tự đầu tư thay vì sử dụng các dịch vụ quản lý tài sản.

Thứ hai, các sản phẩm quản lý tài sản hiện nay còn thiếu chiều sâu và chiều rộng. Các sản phẩm và giải pháp mà các tổ chức tài chính cung cấp hầu như chưa có sự đột phá về tính năng và phù hợp phân khúc khách hàng. Ví dụ như việc chào bán trái phiếu tại các ngân hàng hầu như giống nhau, nội dung tư vấn chỉ đơn giản là lãi suất cao hơn tiền gửi, không hề có sự chuyên biệt và định hướng sản phẩm theo phân khúc về khẩu vị rủi ro cũng như năng lực chấp nhận rủi ro (2 yếu tố cấu thành hồ sơ rủi ro của khách hàng). Hay đối với bất động sản, kênh đầu tư chủ đạo của người Việt vẫn chưa được các tổ chức tài chính hay quản lý gia sản có giải pháp tư vấn hay sản phẩm phù hợp mà chỉ đơn giản là giới thiệu về các Dự án của các đối tác liên kết chứ chưa có sự tư vấn mang tính phù hợp với tình hình tài chính, dòng tiền và khẩu vị đầu tư. Tương tự như vậy, các công ty bảo hiểm cũng giới hạn phạm vi tư vấn của mình ở các sản phẩm bảo hiểm mà rất khó để mở rộng sang các lĩnh vực khác. Những gì khách hàng cần là các giải pháp đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với yêu cầu và mục tiêu riêng của họ thay vì cách tiếp cận “một kích cỡ phù hợp với tất cả” như hiện nay.

Thứ ba, chất lượng nhân lực hoạt động tư vấn tài chính tại Việt Nam hiện nay vẫn rất hạn chế. Các chuyên viên quan hệ khách hàng tại các định chế tài chính nhìn chung là còn thiếu kỹ năng và kiến thức tài chính để quản lý các yêu cầu của khách hàng. Họ thường ít nỗ lực để hiểu nhu cầu cụ thể của khách hàng và thường là vội vàng trong việc thúc đẩy khách hàng đầu tư vào các sản phẩm theo hướng có lợi cho tổ chức tài chính. Tại Việt Nam hiện nay cũng chưa có chuyên ngành hoạch định tài chính cá nhân được đào tạo chuyên nghiệp và bài bản. Điều này gây ra hạn chế đáng kế, cũng như chưa khơi dậy được niềm tin của khách hàng.

Thứ tư, các kênh cung cấp dịch vụ tại các định chế tài chính hiện này chưa thực sự phát triển đa dạng và kết nối tốt. Các tổ chức hiện tập trung nhiều nhân sự vào việc tương tác trực tiếp với khách hàng. Điều này chưa đáp ứng được nhu cầu của nhiều khách hàng hiện nay, khi họ ngày càng muốn các mô hình tương tác kỹ thuật số hiện đại và nhanh chóng hơn, hoặc là kết hợp kỹ thuật số với một vài buổi gặp mặt trực tiếp bạn đầu để lập kế hoạch tài chính, sau đó, thường xuyên tham gia từ xa thông qua các kênh kỹ thuật số.

Khuynh hướng này khác nhau ở giới giàu và siêu giàu. Trong khi những người siêu giàu thích khả năng tiếp cận độc quyền với các cuộc gặp trực tiếp tại các không gian như là phòng dành cho khách hàng cao cấp, các khách hàng ở tầng lớp giàu có có thiên hướng thích kết hợp đa kênh hơn. Nhìn chung, trên diện rộng, các tổ chức tài chính cần phát triển một nền tảng đa kênh, cùng với đó là khả năng quản lý theo thời gian thực, cho phép khách hàng có thể kiểm soát tình hình và tiếp cận các chuyên viên tài chính một cách nhanh chóng.

Để thị trường quản lý tài sản phát triển tương xứng tiềm năng, theo ông, cần phải làm gì?

Trước tiên các định chế tài chính cần chọn lọc một mô hình cụ thể phù hợp để phục vụ nhóm khách hàng siêu giàu và giàu. Trình tự phát triển sẽ phụ thuộc vào nền tảng ban đầu hiện nay, và đòi hỏi phải có những bước đi tuần tự, tuy nhiên, điều quan trọng là các tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ phải có sự thay đổi đáng kể về tư duy nhận thức, có tầm nhìn dài hạn tổng thể và liên tục để xây dựng chiến lược thu hút nhóm khách hàng giàu có và siêu giàu hiện tại, cũng như nhóm khách hàng giàu lên trong tương lai.

Thứ hai, cung cấp dịch vụ dựa trên dữ liệu khách hàng là một xu thế tất yếu. Các khách hàng tài chính ngày càng đòi hỏi cao hơn, họ mong muốn nhận được những tư vấn có chất lượng, và được cá nhân hóa. Phát triển cơ sở dữ liệu nội bộ và khả năng phân tích để hiểu khách hàng là nền tảng quan trọng để nâng cao chất lượng tư vấn và quản lý gia sản.

Thứ ba, các tổ chức tài chính cần phát triển các sản phẩm và giải pháp phù hợp, mang tính tổng thể hơn cho khách hàng. Các khách hàng mong muốn có một kế hoạch tài chính tổng thể, với các giải pháp bất động sản, tư vấn đầu tư, quản lý nợ, thuế, lập kế hoạch di sản… được tích hợp. Ngoài ra, các giải pháp cho doanh nhân và chủ doanh nghiệp như là mở rộng kinh doanh quốc tế, quản lý thanh khoản, vay vốn đầu tư…cũng là những dịch vụ giúp gia tăng giá trị, có thể giúp ích rất nhiều trong việc carit hiện sự tương tác và xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng. Thứ tư, phát triển mô hình dịch vụ đa kênh liên mạch (omni channel). Các khách hàng giàu có nhìn chung vẫn mong muốn được giao dịch trực tiếp, nhưng họ đồng thời cũng muốn chủ động hơn thông qua các kênh giao dịch kỹ thuật số như là internet, ứng dụng di động… Các định chế tài chính Việt Nam vẫn áp dụng mô hình với chuyên viên chăm sóc khách hàng là mối quan hệ cốt lõi, nhưng mô hình này sẽ cần sự thay đổi lớn. Các chuyên viên chăm sóc khách hàng có thể phát triển mối quan hệ với khách hàng, đồng thời kết nối với các kênh cung cấp dịch vụ khác giúp khách hàng có thể tương tác trên nhiều kênh, một cách liền mạch.

Thứ năm, xây dựng năng lực của đội ngũ tư vấn. Một trong những thách thức lớn trên thị trường quản lý tài sản của Việt Nam là nguồn nhân lực còn hạn chế. Các định chế tài chính sẽ cần tập trung vào chiến lược phát triển nguồn nhân lực của mình để tìm ra các nhân sự phù hợp.

Thứ sáu, cần sự hỗ trợ và định hướng từ các cơ quan quản lý trong việc hình thành hành lang pháp lý cho các dịch vụ về quản lý tài sản. Nói cách khác, sân chơi cần được cung cấp nhiều công cụ và luật chơi hơn nữa để hình thành sự chuyên nghiệp, chuyên biệt và chuẩn hóa. Đơn cử như, các yếu tố liên quan đến việc thẩm định trái phiếu hiện nay vẫn còn nhiều điểm cần hoàn thiện để thị trường trái phiếu phát triển bền vững hơn sau sự cố rất nhiều trái phiếu mất thanh khoản và quá hạn thanh toán làm thiệt hại lớn về tài chính và cả niềm tin của người dân. Hay như các hình thái Quỹ tín thác bất động sản (REIT) để đa dạng và đáp ứng nhu cầu đầu tư BĐS của các gia đình trẻ, hoặc Quỹ tín thác gia đình (Family Trust) để quản lý và phân bổ tài sản cho các thế hệ sau của các gia đình khá giả và giàu có.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu khảo sát của chúng tôi cũng cho thấy rằng, người dân Việt Nam còn có hiểu biết tài chính ở mức độ rất hạn chế, kỹ năng quản lý tài chính cá nhân còn yếu, thiếu thông tin về hoạch định tài chính cá nhân và quản lý gia sản. Vì vậy, để phát triển thị trường này, và mang lại những lợi ích to lớn cho chính khách hàng, thì chắc chắn sẽ cần có các chiến lược lớn để nâng cao dân trí tài chính, quản lý và hoạch định tài chính cá nhân. Từ đó, giúp cho khách hàng hiểu, hiểu rồi thì họ mới có thể sử dụng.   

 
Ngân hàng “một mình một chợ” trái phiếu doanh nghiệp
Trong tháng 5/2024, lượng trái phiếu do ngân hàng phát hành chiếm tới 87% tổng giá trị trái phiếu phát hành riêng lẻ.
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư