-
Dự án ách tắc, TP.HCM có nguy cơ thiếu điện -
Vướng mặt bằng, nhiều dự án ở Bình Định chấm dứt hoạt động -
Cạn quỹ đất đề xuất xây thêm nhà xưởng cao tầng tại Khu công nghệ cao TP.HCM -
Lâm Đồng rà soát Dự án Khu du lịch sinh thái, dịch vụ lưu trú tổng hợp -
Khởi công xây Nhà máy sản xuất vật liệu phân huỷ sinh học 100 triệu USD tại Hải Phòng -
Tiên Lãng định hướng trở thành trung tâm công nghiệp phía Nam Hải Phòng
Thứ nhất, vốn bao nhiêu thì phải căn cứ vào vốn đầu tư/GDP, vì nó thể hiện quan hệ giữa nguồn lực với mục tiêu tăng trưởng. Nhìn tổng quát, vốn đầu tư/GDP của Việt Nam thuộc loại cao trên thế giới, có chăng chỉ thấp thua Trung Quốc. Điều đó đã góp phần làm cho GDP liên tục tăng khá, với số năm nhiều thứ hai thế giới (34 năm).
Cần bao nhiêu vốn, nguồn từ đâu và đầu tư vào đâu để đạt hiệu quả tối ưu? |
Vốn đầu tư/GDP cao trong thời kỳ từ năm 2010 trở về trước. Tuy nhiên, đó là mô hình tăng trưởng kinh tế cũ, tức là phát triển theo chiều rộng, tăng trưởng về số lượng và gây ra bất ổn vĩ mô, lạm phát cao.
Từ năm 2011 đến nay, vốn đầu tư/GDP đã giảm xuống tương đối nhanh. Đây là kết quả của đổi mới tư duy chuyển đổi mô hình tăng trưởng. GDP sử dụng thấp hơn GDP sản xuất. Tốc độ tăng GDP sử dụng thời kỳ 2012-2014 vừa thấp hơn thời kỳ trước, vừa thấp hơn tốc độ tăng GDP. Chênh lệch tỷ lệ/GDP của vốn đầu tư và để dành đã chuyển từ cao hơn xuống thấp hơn.
Tuy nhiên, tốc độ tăng GDP đã chậm lại, năm 2012 chỉ đạt 5,25%, thấp nhất trong 13 năm (tính từ năm 2000), năm 2013 tăng 5,42% và năm 2014 tăng 5,98% - đang trong trạng thái thoát đáy, vượt dốc đi lên. Số doanh nghiệp bị phá sản, ngừng hoạt động còn nhiều và liên tục tăng.
Thứ hai, vốn đầu tư lấy nguồn từ đâu. Vốn đầu tư có từ khu vực nhà nước, khu vực ngoài nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài.
Nguồn vốn khu vực nhà nước năm 2014 đạt quy mô lớn nhất trong 3 nguồn, cao hơn tỷ trọng của năm trước (42,4% so với 40,4%). Có 2 bình luận ngược chiều nhau. Một là, đây là cố gắng của Nhà nước trong điều kiện ngân sách còn bội chi, nhưng tổng cầu còn yếu. Hai là, tỷ trọng đó vẫn còn cao, Nhà nước còn “ôm” nhiều quá, thậm chí còn “chèn lấn” các nguồn vốn khác, trong khi hiệu quả lại thấp.
Nguồn vốn khu vực ngoài nhà nước, tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư tiếp tục giảm xuống trong 4 năm nay (2011 là 38,5%, 2012 là 38,1%, 2013 là 37,6%, 2014 ước 36,2%). Việc đầu tư của khu vực ngoài nhà nước gặp những khó khăn, do lãi suất vay cao, nợ xấu còn lớn; số doanh nghiệp ngừng hoạt động, phá sản lớn, liên tục tăng.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký năm 2014 giảm xuống; nhưng lượng vốn thực hiện ước đạt 12,5 tỷ USD, cao nhất từ trước tới nay. Tính từ năm 1988 đến cuối năm 2014, tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký còn hiệu lực đạt trên 286 tỷ USD, thực hiện đạt khoảng 122,9 tỷ USD. Đã có 22 nước và vùng lãnh thổ có lượng vốn đăng ký đạt từ 1 tỷ USD trở lên. Tất cả 63 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có 27 nơi có vốn đầu tư đạt trên 1 tỷ USD.
Thứ ba, đầu tư vào đâu để đạt hiệu quả tối ưu. Cơ cấu vốn đầu tư đã chuyển dịch theo hướng: tỷ trọng vốn đầu tư vào nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản giảm; vào nhóm ngành công nghiệp - xây dựng có xu hướng tăng lên. Nhìn bề ngoài, thì đó là phù hợp.
Tuy nhiên, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư như trên cũng có những điểm chưa hợp lý. Tỷ trọng vốn đầu tư vào nông, lâm nghiệp - thủy sản còn quá thấp, lại bị giảm qua các năm. “Quá thấp” bởi tỷ trọng vốn đầu tư vào nhóm ngành này thấp chỉ bằng một phần ba so với tỷ trọng trong GDP. “Quá thấp” so với quan điểm phải lấy việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là trọng điểm số một.
“Quá thấp” khi trong tổng vốn đầu tư cho nhóm ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản có tỷ trọng không nhỏ lượng vốn đầu tư cho việc xây dựng, tu bổ hệ thống đê điều, chống bão lụt - đó là những công trình không chỉ phục vụ nông, lâm nghiệp, thủy sản, mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế - xã hội của cả nước.
Muốn tăng trưởng phải có vốn, nhưng quan trọng hơn là nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, bởi tăng trưởng dựa vào hiệu quả là tăng trưởng có chất lượng. Muốn có vốn, cần phải coi vốn trong nước là quyết định, bởi đó là nguồn nội lực; nhưng vốn nước ngoài là quan trọng và sự quan trọng này không phải ở quy mô vốn, mà ở trình độ kỹ thuật - công nghệ, ở sự lan tỏa, ở việc quản lý để tránh chuyển giá… Trong vốn trong nước, cần trân trọng nguồn vốn của dân doanh, bởi hiệu quả cao, sử dụng nhiều lao động, ít bị lãng phí, thất thoát; nhưng cần hướng nguồn này đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh, tránh chạy lòng vòng vào các kênh rủi ro dễ tạo thành bong bóng.
ThS. Đỗ Văn Huân
-
Khởi công xây Nhà máy sản xuất vật liệu phân huỷ sinh học 100 triệu USD tại Hải Phòng -
Cấp thiết mở rộng cao tốc TP.HCM - Long Thành -
Tiên Lãng định hướng trở thành trung tâm công nghiệp phía Nam Hải Phòng -
Phê duyệt Quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản -
Xây dựng An Dương trở thành cực tăng trưởng phía Tây Hải Phòng -
Hải Phòng tạo đột phá về không gian và kinh tế với Trung tâm Chính trị - Hành chính mới -
Hà Nội sẽ có cơ chế đầu tư tương xứng cho Khu Công nghệ cao Hòa Lạc
-
1 Thanh tra Bộ Công an thanh tra một số lĩnh vực tại Ngân hàng Nhà nước -
2 Thực hiện thanh tra, kiểm tra chuyên ngành đối với thị trường vàng -
3 Luật Đất đai thực hiện sớm, vui nhiều, lo không ít -
4 Di dời, chuyển đổi công năng Khu công nghiệp Biên Hòa 1: Cuộc “đại phẫu” chưa tiền lệ, ngập thách thức - Bài 2 -
5 Truy nã Tổng giám đốc Công ty Mopha Đỗ Vân Trường liên quan vi phạm của AIC
- Thành phố Thủ Đức khai trương Tổ hợp giải trí Pop-Up D-JOY
- Tìm giải pháp cấp thoát nước đô thị và sử dụng hiệu quả nguồn nước tại Tây Nguyên
- Vinexpo Asia Hồng Kông - Điểm hẹn của các bậc thầy rượu vang
- Triển lãm Tự động hóa Công nghiệp Việt Nam - Đón đầu xu hướng ngành công nghiệp tự động hóa
- Các ngành nghề và thị trường xuất khẩu lao động kỹ thuật cao nào đòi hỏi người lao động có tay nghề vững?
- Tập đoàn Y khoa Hoàn Mỹ nâng cao năng lực khám, chữa bệnh chuyên sâu và mở rộng mạng lưới y tế