
-
Bệnh nhi nhỏ tuổi nhất thế giới được thay toàn bộ xương đùi bằng công nghệ in 3D
-
Tăng thuế thuốc lá: Không thể trì hoãn, không thể chần chừ
-
[Longform] Nước giải khát có đường: Thách thức sức khỏe cộng đồng trong thế kỷ 21
-
Tin mới y tế ngày 8/6: Tăng tốc chuyển đổi số và đào tạo chuyên sâu trong ngành da liễu -
Bộ Y tế thu hồi hàng loạt giấy công bố sản phẩm bảo vệ sức khỏe
Tăng cơ hội sống cho bệnh nhân chạy thận nhờ tối ưu đường vào mạch máu
Đây là nội dung được TTND.PGS.TS.BS.CKII Nguyễn Hữu Ước, Chủ tịch Hội Bệnh mạch máu Việt Nam nhấn mạnh tại Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ IV của Hội Bệnh mạch máu Việt Nam vừa diễn ra tại Huế.
![]() |
Ảnh minh họa. |
Sự kiện quy tụ hàng trăm chuyên gia trong và ngoài nước, lần đầu tiên đưa vấn đề “đường vào mạch máu” cho bệnh nhân chạy thận nhân tạo trở thành chủ đề thảo luận chuyên sâu ở quy mô quốc tế.
Với những bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối, khả năng tự lọc bỏ chất độc trong cơ thể đã mất hoàn toàn, bắt buộc phải điều trị bằng các phương pháp thay thế thận như ghép thận, thẩm phân phúc mạc hoặc chạy thận nhân tạo (lọc máu). Trong đó, chạy thận nhân tạo là lựa chọn phổ biến nhất ở Việt Nam nhờ tính khả thi và phù hợp với điều kiện y tế trong nước.
Để duy trì điều trị hiệu quả, bệnh nhân cần có "đường vào mạch máu" ổn định và lưu lượng lớn để kết nối với máy lọc máu. Nếu đường vào này không bảo đảm do tắc nghẽn, nhiễm trùng hoặc lưu lượng không đủ, quá trình lọc máu không thể thực hiện, gây nguy hiểm tính mạng. Hiện có ba nhóm đường vào mạch máu chính: catheter tĩnh mạch trung tâm (CVC), cầu nối động - tĩnh mạch tự thân (AVF) và cầu nối bằng ống ghép nhân tạo (AVG).
Catheter thường được đặt tại các vị trí như tĩnh mạch dưới đòn, tĩnh mạch cảnh hoặc tĩnh mạch đùi. Tuy nhiên, catheter thường chỉ dùng tạm thời (vài tuần đến 9 tháng tùy loại), do nguy cơ nhiễm trùng cao, đặc biệt là nhiễm trùng huyết - biến chứng có thể đe dọa tính mạng.
Tại Hội nghị, ThS.BS Đỗ Trung Dũng (Khoa Phẫu thuật Tim, Mạch máu và Lồng ngực, BVĐK Tâm Anh Hà Nội) cho biết, catheter vẫn cần thiết trong các tình huống cấp cứu hoặc khi chưa thể tạo AVF kịp thời.
Nhưng về lâu dài, AVF vẫn là giải pháp được ưu tiên hàng đầu. Tỷ lệ nhiễm trùng của AVF chỉ ở mức 0,5-1,5% mỗi bệnh nhân mỗi năm, thấp hơn đáng kể so với AVG (10-15%) và catheter loại thường (lên tới 200%).
Với catheter thể vùi, dù đã cải thiện nguy cơ nhiễm trùng nhờ thiết kế có cuff, nguy cơ vẫn cao hơn AVF và AVG. Đặc biệt, nguy cơ tử vong do nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân dùng catheter thể vùi cao gấp 7 lần so với AVF hoặc AVG.
AVF được đánh giá là tối ưu với nhiều ưu điểm vượt trội: tuổi thọ cao, lưu lượng máu ổn định, hạn chế biến chứng, tiết kiệm chi phí lâu dài. Trong trường hợp mạch máu tự thân không đủ điều kiện, bệnh nhân có thể được tạo AVG tuy dùng được sau 2-3 tuần nhưng có tuổi thọ thấp hơn và dễ gặp biến chứng hơn AVF.
Một trường hợp điển hình là ông Tùng (62 tuổi), mắc bệnh thận mạn giai đoạn cuối kèm tăng huyết áp và đái tháo đường type 2. Sau ba tháng lọc máu bằng catheter trung tâm, ông thường xuyên thấy bất tiện và lo lắng về nguy cơ nhiễm trùng.
Sau khi đánh giá đủ điều kiện mạch máu, bác sỹ đã phẫu thuật tạo AVF ở tay. Một tháng sau, ông Tùng sử dụng AVF để lọc máu ổn định, và trong suốt 2 năm tiếp theo không gặp biến chứng đáng kể nào.
Nghiên cứu đăng trên tạp chí Medicina đầu năm 2025 cho thấy: nhóm bệnh nhân sử dụng AVF có tỷ lệ sống cao nhất (65,5%) trong 7 năm, so với 26,4% ở nhóm dùng catheter thể vùi và chỉ 11% ở nhóm catheter thường. Nguy cơ tử vong tăng 2,8 lần với catheter thể vùi và gấp 5 lần nếu dùng catheter thường so với AVF.
“Việc tạo AVF sớm là chiến lược điều trị được các hướng dẫn quốc tế khuyến nghị hàng đầu”, bác sĩ Dũng nhấn mạnh. Quyết định chọn loại và vị trí đường vào mạch máu cần cá nhân hóa theo tình trạng bệnh và kế hoạch điều trị lâu dài. Thậm chí, ngay cả khi bệnh nhân đã phải lọc máu bằng catheter, việc chuyển sang AVF càng sớm càng tốt sẽ giúp giảm biến chứng, nâng cao hiệu quả lọc máu và kéo dài tuổi thọ.
Các bác sỹ thường ưu tiên tạo AVF ở vị trí xa như cổ tay, bởi nếu xảy ra tắc nghẽn, vẫn còn khả năng tạo đường vào mới ở vị trí gần hơn. Ngược lại, tạo AVF gần tim ngay từ đầu sẽ gây khó khăn khi cần tái tạo đường vào mới. Ngoài ra, việc đào tạo kỹ thuật viên và điều dưỡng viên chọc kim đúng cách cũng rất quan trọng để tránh biến chứng như phình mạch, tắc nghẽn, nhiễm trùng…
Bệnh thận mạn hiện ảnh hưởng tới hơn 10% dân số toàn cầu, tương đương 800 triệu người. Riêng tại Việt Nam, theo thống kê năm 2024, có hơn 8,7 triệu người mắc bệnh thận mạn (chiếm 12,8% dân số trưởng thành), trong đó khoảng 800.000 người cần điều trị lọc máu.
Mỗi năm, có khoảng 8.000 ca mắc mới. Tuy nhiên, hơn 80% bệnh nhân bắt đầu lọc máu mà chưa có đường vào mạch máu dài hạn, phải sử dụng catheter tạm thời tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Theo PGS-TS. Nguyễn Hữu Ước, để cải thiện chất lượng sống và hiệu quả điều trị cho người bệnh, Việt Nam cần đầu tư bài bản vào lĩnh vực đường vào mạch máu, từ lập kế hoạch, phẫu thuật đến chăm sóc và duy trì. Đây là một trong những mảng cần được quan tâm và phát triển mạnh mẽ hơn trong hệ thống y tế hiện đại.
Trong bối cảnh số lượng bệnh nhân suy thận ngày càng tăng cùng với các bệnh lý phức tạp, việc tiếp cận mạch máu an toàn và hiệu quả là một trong những thách thức lớn toàn cầu.
Để vượt qua, cần hướng đến mô hình chăm sóc toàn diện lấy người bệnh làm trung tâm, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại, xây dựng chỉ số đánh giá chức năng đường vào chuẩn hóa và thúc đẩy hợp tác nghiên cứu lâm sàng quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng điều trị.
Hội nghị Khoa học Toàn quốc lần thứ IV của Hội Bệnh mạch máu Việt Nam là diễn đàn để các chuyên gia cập nhật kỹ thuật mới, chia sẻ kinh nghiệm chuyên môn và đề xuất các giải pháp nhằm giảm biến chứng và nâng cao chất lượng điều trị cho người bệnh trong thời gian tới.
Bỏ qua sỏi túi mật, cụ bà suýt mất mạng vì biến chứng hiếm gặp
Những cơn đau bụng quặn thắt bất thường khiến bà Nguyễn Thị T., 77 tuổi, sống tại Hà Nội, rơi vào tình trạng nguy kịch. Khi bụng bà chướng căng như trống và nôn ra dịch xanh lục, gia đình vội vàng đưa bà tới Bệnh viện Bạch Mai. Ít ai ngờ rằng thủ phạm gây ra biến chứng nặng nề đó lại chính là viên sỏi túi mật nhỏ bằng đầu ngón tay mà bà đã mang trong người suốt nhiều năm mà không được điều trị.
Với thể trạng yếu và có nhiều bệnh nền như đái tháo đường và Parkinson, ca mổ của bà T. là một thử thách lớn, được ví như một “ván cờ sinh tử”.
Dưới sự chỉ đạo của bác sỹ Vũ Xuân Vinh cùng ê-kíp phẫu thuật giàu kinh nghiệm của Trung tâm Phẫu thuật Tiêu hóa, ca mổ đã thành công trọn vẹn với hai mục tiêu: giải quyết tình trạng tắc ruột cấp tính và xử lý triệt để nguyên nhân gốc rễ là viên sỏi mật.
Tắc ruột do sỏi túi mật là một biến chứng hiếm gặp nhưng cực kỳ nguy hiểm. Biến chứng này xảy ra khi viên sỏi trong túi mật không được điều trị kịp thời, gây viêm và tạo ra một đường rò giữa túi mật và tá tràng. Viên sỏi từ đó di chuyển xuống ruột và gây tắc nghẽn, chủ yếu ở đoạn hồi tràng.
Tình trạng này chiếm từ 1 đến 4 phần trăm các ca tắc ruột ở người trưởng thành, nhưng có thể chiếm tới 25 phần trăm ở người trên 65 tuổi. Ở người già có nhiều bệnh nền, biến chứng này làm cho tình trạng lâm sàng trở nên nghiêm trọng và việc điều trị cũng trở nên phức tạp hơn nhiều.
Bà T. có tiền sử sỏi túi mật trong nhiều năm nhưng chưa từng phẫu thuật. Ba ngày trước khi nhập viện, bà bắt đầu đau âm ỉ vùng thượng vị và quanh rốn, sau đó xuất hiện các cơn đau quặn dữ dội kèm theo buồn nôn và nôn dịch xanh. Khi vào viện, bụng bà chướng, ấn đau quanh rốn nhưng không thấy phản ứng thành bụng hay quai ruột nổi.
Các bác sỹ nhanh chóng tiến hành các xét nghiệm hình ảnh. Kết quả chụp cắt lớp vi tính ổ bụng cho thấy hình ảnh điển hình của tắc ruột do sỏi mật, bao gồm khí trong đường mật, tắc ruột non với mức nước-khí và sự hiện diện của viên sỏi lạc chỗ trong lòng ruột với kích thước khoảng 23mm. Đồng thời, túi mật thành dày nhẹ, chứa khí và có đường thông rõ với tá tràng.
Ngay sau khi được chẩn đoán xác định là tắc ruột do sỏi mật kèm theo các bệnh lý nền như đái tháo đường và Parkinson, bà T. được điều trị nội khoa tạm thời bằng truyền dịch, kháng sinh và đặt ống thông dạ dày để ổn định trước mổ. Sau một ngày, bệnh nhân được đưa vào phòng mổ.
Trong quá trình phẫu thuật, các bác sỹ phát hiện ổ bụng chứa khoảng 500ml dịch vàng trong, các quai ruột non giãn căng do tắc nghẽn. Viên sỏi màu xanh đen, đường kính khoảng 25mm, đã được lấy ra khỏi lòng ruột cách góc hồi manh tràng khoảng 1 mét. Túi mật viêm teo, dính vào tá tràng và tạo đường rò với hành tá tràng kích thước khoảng 2cm.
Các phẫu thuật viên đã thực hiện cắt túi mật, lấy viên sỏi ra và khâu kín đường rò. Kết quả sinh thiết tức thì sau mổ xác nhận túi mật viêm mạn tính, không có dấu hiệu ung thư.
Diễn biến hậu phẫu của bà T. rất thuận lợi. Bệnh nhân trung tiện sau hai ngày, đại tiện sau ba ngày, và không có dấu hiệu rò mật hay rò tiêu hóa.
Ống dẫn lưu dưới gan được rút bỏ vào ngày thứ năm sau mổ. Trường hợp của bà T. là minh chứng điển hình cho hậu quả của việc chủ quan không điều trị sỏi túi mật khi chưa có biến chứng. Nếu được phẫu thuật sớm, khi sỏi chưa gây tắc ruột hay viêm rò, bệnh nhân có thể chỉ cần mổ nội soi đơn giản, ít xâm lấn.
Tuy nhiên, một khi sỏi đã gây tắc và biến chứng phức tạp, cuộc mổ bắt buộc phải mở bụng, kéo dài thời gian hồi phục và làm tăng nguy cơ biến chứng sau mổ như nhiễm trùng, rò mật, viêm phúc mạc hoặc rối loạn điện giải nặng.
TS. Nguyễn Ngọc Hùng, Giám đốc Trung tâm Phẫu thuật Tiêu hóa, Bệnh viện Bạch Mai khẳng định rằng, ca bệnh thành công không chỉ nhờ kỹ thuật phẫu thuật chính xác mà còn nhờ sự phối hợp đồng bộ giữa các chuyên khoa trong bệnh viện để đánh giá toàn diện các nguy cơ bệnh lý nền và đảm bảo điều kiện tối ưu cho phẫu thuật.
Theo ông, việc phẫu thuật trong các trường hợp tắc ruột do sỏi túi mật ở người cao tuổi cần được cá thể hóa, dựa trên tình trạng toàn thân, khả năng hồi sức, huyết động và cả kinh nghiệm của ê-kíp gây mê hồi sức và phẫu thuật viên.
Từ câu chuyện của bà T., các chuyên gia khuyến cáo người dân không nên chủ quan với sỏi túi mật, kể cả khi bệnh chưa có triệu chứng rõ rệt. Khám sức khỏe định kỳ là chìa khóa quan trọng để phát hiện sớm sỏi túi mật và các bệnh lý liên quan, từ đó có kế hoạch điều trị kịp thời.
Khi xuất hiện các dấu hiệu bất thường như đau bụng, đầy hơi, nôn, hoặc rối loạn tiêu hóa kéo dài, cần đến ngay cơ sở y tế uy tín có chuyên khoa tiêu hóa để được chẩn đoán chính xác và điều trị đúng hướng. Sự chần chừ có thể khiến bệnh chuyển biến nặng, gây nguy hiểm đến tính mạng, đặc biệt ở người cao tuổi có nhiều bệnh lý nền.
Phẫu thuật nội soi tim ít xâm lấn nâng cao chất lượng sống bệnh nhân
Bệnh viện Tim Hà Nội vừa thực hiện thành công ca phẫu thuật nội soi toàn bộ để thay cùng lúc van động mạch chủ và van tim hai lá, thay vì mổ mở qua đường xương ức như trước đây. Đây là kỹ thuật rất khó khăn do phẫu trường nhỏ, đòi hỏi các bác sĩ phải thận trọng và chính xác trong từng thao tác.
Ca mổ đặc biệt này đã được truyền trực tiếp từ phòng mổ đến hội thảo khoa học chuyên đề "Phẫu thuật van tim ít xâm lấn nâng cao: Đâu là giới hạn?" vừa diễn ra tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Sự kiện nhằm mục tiêu cập nhật các kỹ thuật mới, chia sẻ kinh nghiệm trong các ca phẫu thuật van tim phức tạp, qua đó nâng cao chất lượng điều trị và hiệu quả can thiệp tim mạch cho người bệnh.
Việc tổ chức chương trình quy mô quốc tế ngay tại phòng mổ của bệnh viện thể hiện sự phát triển vượt bậc trong năng lực chuyên môn và hội nhập y học hiện đại. Đây cũng là cơ hội quý giá để các bác sĩ Việt Nam học hỏi kỹ thuật tiên tiến và tiếp cận xu hướng điều trị hiện đại trong phẫu thuật tim ít xâm lấn.
PGS.TS Nguyễn Sinh Hiền, Giám đốc Bệnh viện Tim Hà Nội nhấn mạnh rằng, phẫu thuật tim ít xâm lấn không chỉ là một tiến bộ kỹ thuật mà còn là sự chuyển đổi trong triết lý điều trị, lấy bệnh nhân làm trung tâm đồng thời mở ra những giới hạn mới để khám phá và vượt qua.
Phẫu thuật ít xâm lấn có nhiều ưu điểm nổi bật như thời gian phẫu thuật rút ngắn, bệnh nhân hồi phục nhanh và giảm nguy cơ biến chứng.
Ca bệnh được thực hiện trên một nam bệnh nhân 70 tuổi bị hở van động mạch chủ nặng và hở van hai lá. Mặc dù vị trí hai van khá xa nhau, các bác sỹ đã thay thế qua vết mổ nhỏ ở thành ngực mà không cần mở xương ức.
Phẫu thuật tim ít xâm lấn được định nghĩa là các phẫu thuật tim hở qua các đường mổ nhỏ, không phải cưa toàn bộ xương ức và được chia thành nhiều cấp độ từ không sử dụng nội soi, nội soi hỗ trợ đến nội soi toàn bộ.
Trước đây, những ca thay hai van tim thường phải mổ mở với đường mổ lớn, thời gian hồi phục lâu và nguy cơ nhiễm trùng cao. Tuy nhiên, với kỹ thuật nội soi hiện đại, thời gian mổ được rút ngắn đáng kể, bệnh nhân hồi phục nhanh hơn và tránh được các biến chứng như viêm xương do tách xương ức.
PGS.TS Hiền cũng cho biết phương pháp này rất phù hợp với người cao tuổi vì xương ức họ thường mềm, dễ bị tổn thương và khó lành. Sau phẫu thuật nội soi, bệnh nhân có thể xuất viện chỉ sau một tuần trong khi mổ mở truyền thống cần 2-3 tuần.
Để thực hiện thành công những ca mổ khó như thế, ngoài tay nghề của bác sĩ phẫu thuật, còn cần sự phối hợp nhịp nhàng của ê-kíp gây mê hồi sức, nhân viên chạy máy tim phổi nhân tạo và sự hỗ trợ của các trang thiết bị chuyên sâu hiện đại.
Bệnh viện Tim Hà Nội mỗi năm thực hiện khoảng 2.300 ca phẫu thuật tim hở và khoảng 900 ca phẫu thuật ít xâm lấn, là bệnh viện đứng đầu cả nước về số lượng phẫu thuật tim.
Bệnh viện còn nghiên cứu và áp dụng các phương pháp sửa chữa van tim thay vì thay van, giúp bảo tồn van tự nhiên, giảm nhu cầu dùng thuốc chống đông và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Hội thảo lần này không chỉ diễn ra các bài báo cáo mà còn có 6 ca phẫu thuật nội soi van tim ít xâm lấn được thực hiện trực tiếp tại phòng mổ. Ngoài ra, sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 20 bác sĩ quốc tế đến từ Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines...
Đây là lần thứ tư Bệnh viện Tim Hà Nội tổ chức hội thảo quốc tế giới thiệu phương pháp phẫu thuật ít xâm lấn, thể hiện quyết tâm nâng cao năng lực chuyên môn, cập nhật kỹ thuật hiện đại và hợp tác quốc tế.
PGS-TS. Nguyễn Sinh Hiền khẳng định, việc áp dụng kỹ thuật phẫu thuật nội soi tim ít xâm lấn là xu hướng phát triển tất yếu của y học hiện đại, giúp rút ngắn thời gian hồi phục, giảm đau đớn và biến chứng, từ đó nâng cao chất lượng sống cho người bệnh tim mạch.
-
Tin mới y tế ngày 9/6: Tăng cơ hội sống cho bệnh nhân chạy thận nhờ tối ưu đường vào mạch máu -
Tin mới y tế ngày 8/6: Tăng tốc chuyển đổi số và đào tạo chuyên sâu trong ngành da liễu -
Cơ hội vàng để phát triển thị trường thử nghiệm lâm sàng -
Áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước giải khát có đường: Giải pháp thiết thực để bảo vệ sức khỏe cộng đồng -
Suy thận cấp, tiêu cơ vân vì say nóng: Hồi chuông cảnh báo giữa mùa hè khắc nghiệt -
Tin mới y tế ngày 7/6: Ứng dụng AI nâng cao hiệu quả chẩn đoán bệnh lý gan -
Cuộc chiến với hàng giả y tế vẫn cam go và chưa có điểm dừng
-
Giải pháp nhà ở vừa túi tiền nở rộ tại khu vực giáp ranh TP.HCM
-
Meey Atlas theo đuổi hiện thực hóa tầm nhìn "Smart City trong lòng bàn tay"
-
Công ty cổ phần Cảng Sài Gòn - Hiệp Phước thông báo gia hạn thời gian mời hợp tác đầu tư
-
Agribank dành 10.000 tỷ chương trình vay vốn ưu đãi mua nhà ở xã hội dành cho người trẻ
-
Siêu dự án “hot” nhất tại Thủy Nguyên sắp “trình làng”
-
Thương hiệu bánh ngọt Hàn Quốc ứng dụng blockchain gia tăng trải nghiệm cho khách hàng