Thứ Tư, Ngày 26 tháng 03 năm 2025, 15h32
Tiêu điểm ngân hàng tuần qua
Vàng vượt mốc 100 triệu đồng/lượng; Thị trường M&A ngân hàng chờ thương vụ tỷ USD
T.L - 23/03/2025 12:06
 
Giá vàng trong nước lần đầu tiên vượt ngưỡng 100 triệu đồng/lượng; ngân hàng lớn khởi động thương vụ M&A tỷ USD; tín dụng vẫn tăng chậm do doanh nghiệp cạn tài sản thế chấp... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

 Vàng xô đổ mọi kỷ lục, giá vàng nhẫn vượt 100 triệu đồng/lượng rồi quay đầu giảm

Giá vàng nhẫn chính thức vượt mốc 100 triệu đồng/lượng trong chiều ngày 19/3 khi đạt 100,4 triệu lượng bán ra. Đồng thời, giá vàng miếng SJC niêm yết 99,83 triệu đồng/lượng.

Cụ thể, giá vàng nhẫn tiếp tục tăng vượt mốc 100 triệu đồng/lượng vào đầu giờ chiều ngày 19/3 sau khi tăng mạnh gần 1 triệu đồng/lượng trong sáng nay. 

Giá vàng trong nước tăng do vàng quốc tế lên cao trong sáng nay, giá vàng giao quanh ở ngưỡng 3.035 USD/ounce, tăng mạnh so với chốt phiên giao dịch ngày hôm qua. Thậm chí các chuyên gia của Kitco News còn dự báo trước đó rằng giá vàng sẽ đạt mức cao nhất là 3.200 USD/ounce trong năm nay. Tuy có thể gặp biến động, kim loại quý này vẫn đang trong xu hướng tăng vững chắc.

Hiện các nhà đầu tư hiện đang theo dõi thông tin từ cuộc họp của Ủy ban Thị trường Mở của Cục Dự trữ liên bang (FOMC) bắt đầu vào sáng thứ ba và kết thúc vào chiều thứ tư (19/3). Thị trường kỳ vọng sẽ không có thay đổi lãi suất nào tại cuộc họp này, nhưng sẽ phân tích kỹ lưỡng các từ ngữ trong tuyên bố của FOMC và cuộc họp báo của Chủ tịch Fed ông Jerome Powell.

Trong khi các nhà phân tích kỳ vọng Fed sẽ giữ lập trường chính sách tiền tệ của mình trong bối cảnh lo ngại lạm phát dai dẳng, các nhà đầu tư sẽ tìm kiếm các dự báo kinh tế mới từ các quan chức Fed để tìm bằng chứng về cách các ngân hàng trung ương nhìn nhận tác động có thể của chính sách chính quyền Trump. Giới phân tích tài chính cho rằng, vàng tăng giá một phần do USD suy giảm gần đây trước những lo ngại về loạt chính sách thuế quan của chính quyền ông Donald Trump có thể ảnh hưởng tới nền kinh tế Mỹ.

Đáng chú ý hơn nữa là các căng thẳng tại Trung Đông, cũng góp phần đáng kể củng cố vị thế của vàng như một nơi trú ẩn cho dòng vốn. Các bên tham gia thị trường cũng đang theo dõi chặt chẽ những tác động kinh tế tiềm tàng từ các chính sách thương mại, vốn có thể kích hoạt những tranh chấp thương mại rộng hơn trên toàn cầu.

Thực tế cũng cho thấy, vàng đã vượt trội hơn nhiều loại tài sản khác, ghi nhận mức tăng khoảng 37% kể từ tháng 3 năm ngoái. Đà tăng đáng kể này phản ánh sự kết hợp giữa lãi suất giảm và sự dịch chuyển chiến lược dòng vốn sang các tài sản dựa trên vàng.

Tuy nhiên, Cú rơi sâu trong phiên thứ Sáu và sáng cuối tuần (22/3) kéo giá vàng miếng bán ra giảm 3 triệu đồng/lượng từ đình. So với cuối tuần trước, giá vàng bán ra tại các hãng kinh doanh vàng vẫn đang nhỉnh hơn, nhưng thấp hơn ở chiều thu mua.

Tuần giao dịch từ 18 - 22/3 khép lại với những rung lắc mạnh mẽ của thị trường vàng trong nước. Giá vàng miếng SJC đã có lúc tăng vọt lên mức kỷ lục 104,4 triệu đồng/lượng chiều bán ra, trước khi điều chỉnh mạnh vào hai phiên cuối tuần. Kết thúc tuần, giá mua vào - bán ra tại các cửa hàng được yết lần lượt ở mức 94,4 triệu đồng/lượng (mua vào), 97,4 triệu đồng/lượng (bán ra), tương đương giảm tới 4,2 triệu đồng/lượng chiều thu mua và khoảng 3 triệu đồng/lượng ở chiều bán so với mức đỉnh lịch sử xác lập trong tuần.

So với cuối tuần trước, giá vàng miếng SJC bán ra vẫn tăng 1,6 triệu đồng/lượng. Tuy vậy, với việc giảm mạnh giá thu mua từ dân cư, giá mua vào đã giảm xuống mức thấp nhất từ ngày 17/3. Tương tự, giá vàng nhẫn cũng giảm với giá bán ra cũng phổ biến ở mức 97,4 triệu đồng/lượng. Riêng Bảo Tín Minh Châu đang niêm yết mức khá cao tại mức 96,1 triệu đồng/lượng (mua vào) và 98,6 triệu đồng/lượng (bán ra).

Chênh lệch giá mua bán nới rộng lên 3 triệu đồng mỗi lượng đối với vàng miếng SJC và khoảng 2,5-3 triệu đồng/lượng đối với vàng nhẫn, cao hơn nhiều mức 1,5- 2 triệu phổ biến tháng vừa qua. Thị trường đã hạ nhiệt nhanh sau khi trở nên rất nóng sau khi vàng thế giới vượt khỏi mốc 3.000 USD/ounce tác động đến tâm lý sợ bỏ lỡ cơ hội (FOMO) của nhà đầu tư.

Trên thị trường quốc tế, giá vàng giao ngay giảm hơn 1% về quanh mốc 3.015 USD/ounce trong phiên cuối tuần, do chịu áp lực chốt lời và đồng USD mạnh lên. Giá vàng kỳ hạn tháng 4 cũng điều chỉnh về 3.028,2 USD/ounce.

USD phục hồi về mức cao hai tuần khiến các kim loại quý trở nên đắt đỏ hơn với nhà đầu tư quốc tế. Song nhu cầu trú ẩn vẫn được duy trì trong bối cảnh xung đột leo thang tại Gaza và lo ngại về chính sách thương mại bảo hộ của Tổng thống Mỹ Donal Trump.

Chỉ số US Dollar Index (DXY) đo sức mạnh đồng bạc xanh đã quay lại mốc 104 điểm sau chuỗi 3 phiên tăng liên tiếp. Lập trường chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) tiếp tục được thị trường đánh giá sau cuộc họp báo công bố quyết định lãi suất hôm 20/3. Fed giữ nguyên lãi suất nhưng phát tín hiệu về hai đợt cắt giảm trong năm nay.

Fed cũng nhấn mạnh rủi ro gia tăng đối với tăng trưởng, việc làm và lạm phát trong các dự báo kinh tế cập nhật.

Đánh giá về các thông tin từ cuộc họp của Fed, ông Nguyễn Đức Khang, Trưởng phòng Phân tích tại Công ty cổ phần chứng khoán Pinetree chỉ ra cụm  từ lạm phát “tạm thời” (transitory inflation) là điểm đáng chú ý trong bài phát biểu của Chủ tịch Fed bởi khá lâu rồi mới được dùng lại. Lần cuối chúng ta nghe được cụm từ này là năm 2021, khi Fed bơm tiền để hỗ trợ nền kinh tế sau Covid. Tuy nhiên, lần đó, Fed đã sai khi lạm phát không “tạm thời” như Fed kỳ vọng. 

Bên cạnh lãi suất được giữ nguyên, việc Fed ra tín hiệu hạ dần chính sách thắt chặt định lượng (QT) với việc giảm giới hạn trần số lượng trái phiếu chính phủ Mỹ đáo hạn. Theo đó, Fed sẽ chỉ cho phép 5 tỷ USD từ trái phiếu chính phủ Mỹ đáo hạn mà không tái đầu tư, giảm mạnh từ mức 25 tỷ USD trước đây. 

Trong tuần tới, từ 25 - 29/3, thị trường sẽ tập trung vào một loạt dữ liệu kinh tế Mỹ như chi tiêu và thu nhập cá nhân, chỉ số giá PCE, doanh số nhà ở, niềm tin tiêu dùng và GDP quý IV (số liệu cuối cùng). Đặc biệt, báo cáo PCE tháng 2 sẽ được theo dõi sát sao sau khi Fed phát đi tín hiệu giữ nguyên lãi suất và để ngỏ khả năng cắt giảm trong năm nay.

Ngoài ra, số liệu chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) sơ bộ tháng 3 sẽ được công bố tại Mỹ, Anh, Eurozone, Nhật Bản và Ấn Độ, cùng dữ liệu lạm phát tại Australia, Anh, Pháp và Tây Ban Nha, có thể làm rõ hơn bức tranh kinh tế vĩ mô tại nhiều quốc gia lớn.

Chuyên gia lý giải nguyên nhân giá vàng vọt lên 100 triệu đồng/lượng

Kỳ vọng giá vàng tiếp tục tăng, nguồn cung khan hiếm trong khi giá vàng thế giới tăng vọt, nỗi lo lạm phát, lãi suất tiết kiệm thấp… là những nguyên nhân khiến giá vàng trong nước chạm mốc 100 triệu đồng/lượng và tăng mạnh hơn giá thế giới.

Giá vàng thế giới phiên hôm nay tiếp tục chinh phục kỷ lục mới. Cụ thể, rạng sáng nay, giá vàng giao ngay đứng ở mức 3.049,5 USD/ounce. Vàng vượt 3.000 USD/ounce sau khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) quyết định giữ nguyên lãi suất như dự kiến và cho biết sẽ giảm chi phí đi vay nửa phần trăm vào cuối năm nay.

Vài ngày qua, giá vàng trong nước cũng lập kỷ lục mọi thời đại: cả giá vàng miếng và vàng nhẫn chính thức đạt mốc 100 triệu đồng/lượng trong phiên hôm qua (19/3/2025).

Trả lời câu hỏi của báo Đầu tư điện tử - Baodautu.vn, ông Shaokai Fan, Giám đốc khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (không bao gồm Trung Quốc) kiêm Giám đốc ngân hàng Trung ương Toàn cầu tại Hội đồng vàng thế giới chỉ ra loạt nguyên nhân khiến vàng thế giới tăng vọt từ đầu năm đến nay.

Thứ nhất, lý do khá cũ, là lo ngại về lạm phát và chính sách tiền tệ nới lỏng hơn cũng như các xung đột địa chính trị.

Thứ hai, nguyên nhân mới khiến giá vàng “căng” từ đầu năm đến nay là những lo ngại về thuế quan và tác động trên phạm vi rộng mà thuế quan có thể gây ra đối với tăng trưởng toàn cầu đã thúc đẩy nhu cầu về vàng, khiến các tổ chức đầu tư và cá nhân tìm đến vàng như một biện pháp bảo phòng ngừa rủi ro.

Thứ ba, cầu vàng vật chất tăng mạnh tại Mỹ và làn song rầm rộ chuyển vàng vật chất từ các hầm vàng ở London (Anh) về Mỹ làm ảnh hưởng nguồn cung vàng ở các thị trường khác. Vàng vật chất được các nhà đầu tư ồ ạt chuyển sang Mỹ do nhu cầu trú ẩn vào vàng của nhà đầu tư Mỹ tăng và do lo ngại vàng nhập khẩu sẽ bị tăng thuế.

Theo ông Shaokai Fan, cung vàng toàn cầu vẫn có khả năng đáp ứng được sức cầu. Tuy nhiên, với tình hình chính sách tiếp tục bất ổn trên toàn cầu, nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng là điều mà các nhà đầu tư lo ngại.

“Đầu năm 2025, giá vàng tương lai trên sàn COMEX (Sàn giao dịch hàng hóa New York) bắt đầu có sự khác biệt so với giá vàng tại London, do nhu cầu vàng vật chất ở Mỹ tăng đáng kể do lo ngại vàng sẽ bị tăng thuế. Điều này đã gây ra sự chênh lệch giá giữa thị trường vàng của Mỹ và vàng toàn cầu, đồng thời thu hút lượng lớn vàng vật chất đổ về Mỹ. Mặc dù tình hình này hiện đã lắng xuống, nhưng vẫn tiếp tục có những lo ngại về tác động của thuế quan đối với nguồn cung vàng hiện có ở Mỹ”, ông Shaokai Fan nhận định.

Nguyên nhân thứ tư khiến vàng bốc đầu thời gian qua là do USD suy yếu. Từ đầu năm đến nay, USD Index đã giảm gần 6%. Việc USD yếu hơn sẽ làm cho vàng trở nên hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư như một tài sản lưu trữ giá trị.  

Nguyên nhân cuối cùng, các quỹ ETF vàng – vốn trỗi dậy năm 2024 sau thời gian dài gần như đóng băng – dự báo sẽ tiếp tục đổ vốn vào vàng năm 2025. Chỉ tính riêng tháng 2/2025, các quỹ này đã đổ 9,4 tỷ USD vào vàng.

Tại thị trường Việt Nam, giá vàng phiên hôm qua đã đạt kỷ lục mọi thời đại: 100 triệu đồng/lượng do nhiều yếu tố: giá vàng thế giới tăng; tâm lý kỳ vọng giá vàng tiếp tục tăng; cung vàng khan hiếm; lãi suất tiết kiệm thấp… giá vàng Việt Nam thời gian gần đây tăng nhanh hơn giá thế giới.

Trả lời câu hỏi của báo Đầu tư, ông Shaokai Fan cho rằng, năm nay, cầu vàng trang sức của Việt Nam có thể tiếp tục giảm, song cầu vàng miếng, vàng nhẫn – tức cầu đầu tư vàng- sẽ tiếp tục tăng nhằm nhà đầu tư muốn đối phó với lạm phát và sự bất ổn của thị trường.

“Vàng có thể đóng vai trò trong nhiều danh mục đầu tư như một cách để phòng ngừa rủi ro trong bối cảnh bất ổn và cải thiện sự đa dạng hóa tài sản. Vàng từ lâu đã cho thấy hiệu suất tốt trong các giai đoạn bất ổn. Trong môi trường toàn cầu có nhiều bất ổn như hiện nay, Hội đồng vàng thế giới tin rằng tất cả các nhà đầu tư nên xem xét giá trị mà vàng có thể mang lại cho danh mục đầu tư của họ”, ông Shaokai Fan nhận định.

Đối với nhà đầu tư Việt lúc này, ông Phan Dũng Khánh, chuyên gia tài chính khuyến nghị, những người đang sở hữu vàng ở vùng giá thấp có thể mua thêm, song người mua mới thì khá rủi ro. Do đó, nhà đầu tư chỉ nên mua vàng với tỷ trọng nhỏ trong tổng danh mục, đặc biệt không nên sử dụng đòn bẩy, vay tiền để mua vàng.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế lại khuyên nhà đầu tư thận trọng với tâm lý đám đông, không nên vội vàng giao dịch vàng trên “chợ mạng” vì nguy cơ dính phải vàng giả.      

Lãi vay giảm, doanh nghiệp lại lo cạn tài sản thế chấp

Mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm 0,8% kể từ đầu năm nay. Tuy vậy, điều làm doanh nghiệp lo lắng là tài sản thế chấp đã “cạn”, trong khi vay tín chấp vẫn khó khăn và tỷ giá vẫn là nỗi ám ảnh.

Dư địa tăng trưởng tín dụng năm nay còn rất lớn, song nhiều doanh nghiệp cho biết vẫn khó tiếp cận vốn, nguyên nhân chính là thiếu tài sản thế chấp.

Ông Ngô Văn Khánh, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Bắc Giang cho biết, việc vay vốn đã thuận lợi hơn trước, song khó khăn vẫn còn. Cụ thể, ngân hàng luôn đòi hỏi tài sản thế chấp; dù Công ty đã có bề dày lịch sử, doanh số xuất khẩu lên tới 50 triệu USD, song vẫn khó vay tín chấp.

Tương tự, ông Lương Quốc Toản, Phó tổng giám đốc Công ty Giấy và Bao bì Phú Giang (Bắc Ninh) cho hay, hiện các ngân hàng chỉ ưu tiên nhận tài sản thế chấp là bất động sản. Nhiều doanh nghiệp thiếu tài sản thế chấp bất động sản gặp khó khăn khi đề xuất tăng hạn mức tín dụng. Do đó, ông Toản kiến nghị, ngân hàng áp dụng tỷ lệ tối thiểu là bất động sản, tăng tỷ lệ nhận tài sản thế chấp là máy móc thiết bị, hàng tồn kho…

Các ngân hàng đang dồi dào thanh khoản, dư thừa room tín dụng và đều muốn đẩy mạnh cho vay. Tuy nhiên, với tình trạng của doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay, nhiều ngân hàng rất ngại “thả gà ra đuổi”.

Ông Đỗ Quang Hiển, Chủ tịch HĐQT SHB lý giải, đúng là hiện nay doanh nghiệp nhỏ và vừa rất cần vốn, song không có tài sản bảo đảm, trình độ quản lý chưa cao. Nhiều doanh nghiệp có ý tưởng hay, nhưng chưa đủ năng lực lập kế hoạch kinh doanh.

Do cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa rủi ro cao, nếu xảy ra thất thoát vốn, thì cán bộ tín dụng có nguy cơ vướng vào lao lý. Để ngân hàng mạnh dạn cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, các ngân hàng cho rằng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần cho cơ chế, phạm vi mức độ có rủi ro cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, miễn là không được tiêu cực, để cán bộ ngân hàng mạnh dạn cho vay.

Về vấn đề này, NHNN cho rằng, việc cho vay tín chấp hay thế chấp thuộc quyền tự quyết của ngân hàng thương mại, NHNN không can thiệp. Doanh nghiệp muốn được vay tín chấp thì không còn cách nào khác là phải đạt được sự tín nhiệm của ngân hàng. Về lâu dài, để ngân hàng yên tâm cho vay tín chấp, cần có nhiều giải pháp hỗ trợ về chính sách, đặc biệt là huy động sự vào cuộc của quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Kể từ đầu tháng 3/2025 đến giữa tuần này, đã có khoảng 20 ngân hàng giảm lãi suất huy động. Đồng thời, lãi suất cho vay đã giảm 0,8% so với đầu năm, mức giảm khá mạnh so với mức giảm lãi suất cả năm 2024 là 1,4%. Dù vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn mong muốn lãi vay giảm hơn nữa, đặc biệt là lãi vay trung, dài hạn.

Ông Nguyễn Văn Chiển, Giám đốc Công ty TNHH Kết cấu thép An Phú (tỉnh Bắc Ninh) cho biết, Công ty đang vay vốn ngắn hạn tại Vietcombank với lãi suất 6-6,5%/năm. “Chúng tôi muốn thời gian tới được vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn để có thể tiếp cận quỹ đất, mở rộng mặt bằng sản xuất - kinh doanh”, ông Chiển đề nghị.

Bên cạnh lãi suất, tỷ giá cũng là một trong những nỗi lo lớn nhất của doanh nghiệp hiện nay. Ông Ngô Văn Khánh cho hay, với doanh nghiệp xuất nhập khẩu, biến động tỷ giá ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh. Do đó, doanh nghiệp rất mong tỷ giá giữ được ổn định và chênh lệch mua - bán ngoại tệ không quá cao.

Theo lãnh đạo NHNN, trong thời gian qua, NHNN đã có nhiều giải pháp như giảm lãi suất trên thị trường tín phiếu, tăng kỳ hạn thị trường mở… để giúp các tổ chức tín dụng tiếp cận vốn, giảm lãi vay. Về tỷ giá, NHNN không cố định, nhưng sẽ cố gắng duy trì, trong trường hợp cần thiết sẵn sàng sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường. 

Ngân hàng đau đầu nghĩ cách tối ưu chi phí vận hành

Áp lực giảm lãi suất cho vay trong khi mặt bằng lãi suất huy động khó giảm mạnh khiến các ngân hàng đứng trước nguy cơ suy giảm biên lãi thuần (NIM), nếu như không tối ưu hơn nữa chi phí vận hành.

Tính từ khi sau cuộc họp giữa ngân hàng Nhà nước (NHNN) với các ngân hàng cuối tháng 2/2025 đến nay, đã có hơn 20 ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động. Tuy vậy, việc giảm lãi suất huy động chỉ áp dụng ở một số kỳ hạn và phần lớn áp dụng với khách hàng thông thường (lãi suất huy động với khách VIP - chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tiền gửi nhiều ngân hàng - hầu như không giảm). Do đó, chi phí vốn đầu vào nhiều ngân hàng chưa giảm nhiều.

Trong khi đó, để hỗ trợ mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trở lên trong năm nay, nhiều ngân hàng đã tung ra nhiều gói tín dụng lãi suất thấp. Trong bối cảnh các ngân hàng vẫn sống dựa chủ yếu vào tín dụng, việc giảm lãi suất đầu ra, trong khi lãi suất đầu vào chưa giảm đáng kể sẽ ảnh hưởng đến NIM cũng như lợi nhuận năm nay.

Theo chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán MBS, năm nay, tín dụng dự báo tăng mạnh (17-18%) trong khi huy động vốn tăng chậm sẽ gây áp lực lên thanh khoản ngân hàng. Do đó, chi phí vốn của các ngân hàng trong năm 2025 khó có thể giảm so với năm 2024. Về lãi suất cho vay, khả năng năm nay, các ngân hàng phải tiếp tục duy trì lãi vay thấp để hỗ trợ người đi vay do áp lực cạnh tranh lớn trong việc thúc đẩy tín dụng.

“Với áp lực tăng lãi suất tiền gửi trong các quý tới, chúng tôi dự báo, NIM của các ngân hàng khó có thể tăng mạnh trong năm 2025”, chuyên gia phân tích MBS nhận định.

Do biên lãi thuần khó có khả năng tăng mạnh, MBS đã hạ dự báo tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành từ mức 20,2% trước đó xuống còn 17,7%, tương đương mức tăng trưởng năm 2024, dù tín dụng năm nay tăng trưởng mạnh hơn.

Theo Phó thống đốc NHNN Đào Minh Tú, việc quy định mức lãi suất huy động và cho vay bao nhiêu là quyền của các ngân hàng thương mại, song trong mặt bằng chung nền kinh tế hiện nay, ngân hàng cũng phải “ăn trông nồi, ngồi trông hướng” trên tinh thần thực sự chia sẻ, hỗ trợ doanh nghiệp, coi doanh nghiệp là bạn hàng đối tác, là một thành tố trong hệ sinh thái đồng hành cùng ngân hàng. Doanh nghiệp càng lúc khó khăn, thì ngân hàng càng phải chia sẻ.

PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân (Trường đại học Kinh tế TP.HCM) nhận định, ngân hàng đang là nhóm doanh nghiệp có lợi nhuận cao nhất trong nền kinh tế Việt Nam. Thời gian qua, các ngân hàng đã cố gắng điều chỉnh NIM để hỗ trợ nền kinh tế, song mức giảm chưa đáng kể, bởi ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, nên yêu cầu giảm lợi nhuận để hỗ trợ doanh nghiệp là không dễ dàng. Dù vậy, ngân hàng vẫn còn dư địa giảm lãi vay nhờ các động thái hỗ trợ thanh khoản của NHNN.

Lãnh đạo NHNN tuyên bố, các ngân hàng hoàn toàn không phải cạnh tranh lãi suất huy động vì NHNN sẽ có nhiều giải pháp để hỗ trợ thanh khoản thông qua thị trường liên ngân hàng. 

Hiện các ngân hàng vẫn sống dựa chủ yếu vào tín dụng (khoảng 80% thu nhập đến từ tín dụng), do đó, việc NIM giảm tốc sẽ ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng trưởng lợi nhuận. Để tăng trưởng lợi nhuận, các ngân hàng buộc phải chạy đua tối ưu hóa chi phí, đa dạng hóa nguồn vốn rẻ, đa dạng nguồn thu ngoài lãi…

Ông Lê Hoài Ân, CFA Wiresearch cho rằng, bối cảnh lãi suất thấp đã làm gia tăng áp lực cạnh tranh, khiến bài toán tối ưu chi phí huy động trở thành yếu tố then chốt quyết định mức độ cải thiện NIM. Các ngân hàng có lợi thế về nguồn vốn giá rẻ và đa dạng hóa nguồn huy động sẽ linh hoạt hơn trong việc thích ứng với môi trường lãi suất cho vay thấp.

Gần đây, một số ngân hàng tung ra sản phẩm tiền gửi “siêu lợi suất”, nhắm vào tiền gửi dưới 1 tháng. Theo đó, thay vì chỉ trả lãi suất huy động không kỳ hạn 0,1%/năm cho tiền gửi dưới 1 tháng (lãi suất không kỳ hạn), các ngân hàng đưa ra nhiều kỳ hạn tiền gửi, thậm chí cả kỳ hạn từ 1 ngày với lãi suất từ 2,5%/năm (tức cao gấp hàng chục lần lãi suất không kỳ hạn) để khuyến khích người dân gửi tiết kiệm. Động thái này diễn ra trong bối cảnh cạnh tranh thu hút tiền gửi không kỳ hạn (CASA) ngày càng gay gắt và dòng CASA đang sụt giảm tại nhiều ngân hàng.  

Ngoài ra, để bù đắp sự giảm tốc của NIM, nhiều ngân hàng đang đẩy mạnh chuyển đổi số, cắt giảm nhân sự để tối ưu hóa chi phí vận hành. PGS-TS Nguyễn Hữu Huân cho rằng, lợi nhuận các ngân hàng vẫn tăng trưởng ổn định thời gian gần đây không hẳn do “ăn dày” lãi suất, mà một phần nhờ áp dụng số hóa, tối ưu hóa chi phí vận hành.

Một yếu tố nữa để các ngân hàng tăng trưởng lợi nhuận là tăng thu nhập ngoài lãi. Năm 2024, thu nhập từ lãi của ngân hàng tăng trưởng yếu hơn nhiều so với tăng nguồn thu từ lãi. Năm nay, theo dự báo của chuyên gia phân tích MBS, thu từ lãi của các ngân hàng sẽ tăng khoảng 17%, nhưng do xuất phát từ nền thấp năm 2024. Tỷ trọng của thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập vẫn chỉ duy trì ở 22% tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng.

Cuối cùng, tốc độ tăng trưởng lợi nhuận ngân hàng năm nay tùy thuộc vào chi phí trích lập dự phòng. Việc đẩy tín dụng tăng cao năm nay có nguy cơ sẽ khiến nợ xấu tăng theo, đồng nghĩa chi phí trích lập dự phòng tăng mạnh (ước tính tăng gần 17% năm nay). Theo đó, chỉ những ngân hàng duy trì được chất lượng tín dụng mới giữ vững được phong độ lợi nhuận.  

Khoảng 44% dư nợ tín dụng ngân hàng được "bơm" cho doanh nghiệp tư nhân

Tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các tổ chức tín dụng đạt khoảng gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế.

Phó thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định, kinh tế tư nhân đóng vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân không chỉ giúp mở rộng sản xuất, thương mại, dịch vụ mà còn góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia.

Phó Thống đốc Đào Minh Tú phát biểu tại Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân” sáng 21/3 tại Hà Nội
Phó Thống đốc Đào Minh Tú phát biểu tại Hội thảo “Vốn ngân hàng góp phần thúc đẩy kinh tế tư nhân” sáng 21/3 tại Hà Nội

Đến nay, với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực kinh tế tư nhân hiện đóng góp gần 50% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm khoảng 85% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa (chiếm đến 98%), sức cạnh tranh thấp, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Nhiều doanh nhân chưa có kỹ năng quản trị cao, tư duy kinh doanh vẫn thiếu tầm nhìn chiến lược dài hạn. Các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm khoảng 2%, tập trung vào một số ngành chủ lực như sản xuất thép, ô tô, công nghệ cao,…

Những năm qua, ngành ngân hàng đã tích cực thực hiện đồng bộ các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của người dân, doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp tư nhân nói riêng. 

Tính đến cuối năm 2024, dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp tư nhân tại các TCTD đạt khoảng gần 7 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 14,7% so với năm 2023, chiếm khoảng 44% dư nợ tín dụng nền kinh tế. 

Đánh giá rất cao nỗ lực của ngành ngân hàng trong cung ứng vốn cho doanh nghiệp tư nhân, song Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam Nguyễn Văn Thân cũng chỉ ra rằng, đang có hiện tượng nhiều nhà băng đang tập trung cho vay doanh nghiệp lớn. Để tiếp cận vốn ngân hàng, theo ông Thân, doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tích cực ứng dụng công nghệ để rút ngắn quá trình phát triển, tăng cường liên doanh liên kết.

Chủ tịch Hãng kiểm toán ASCO Nguyễn Thanh Khiết hiến kế, để dễ tiếp cận vốn ngân hàng, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực quản trị, năng lực tài chính và minh bạch thông tin của doanh nghiệp. Xây dựng, cải thiện hệ thống quản trị doanh nghiệp, áp dụng công nghệ và AI trong kế toán và quản lý tài chính, các lĩnh vực tác nghiệp khác. 

Ngoài ra, các chuyên gia cũng cho rằng, ngân hàng nên thiết kế các sản phẩm tài chính chuyên biệt như khoản vay tín chấp dựa trên dòng tiền kinh doanh, khoản vay theo hợp đồng đầu ra hoặc khoản vay dựa trên tài sản hình thành từ vốn vay. Cùng với đó, cần mở rộng mô hình đánh giá tín dụng dựa trên dữ liệu giao dịch thực tế của doanh nghiệp. Mặt khác, phát triển mạnh hệ thống quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt rủi ro cho ngân hàng và hỗ trợ doanh nghiệp không có tài sản đảm bảo: Chính phủ và các tổ chức tài chính cần tăng cường vốn cho các quỹ bảo lãnh tín dụng, mở rộng phạm vi bảo lãnh để giúp nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vốn dễ dàng hơn. Đồng thời, cần cải tiến quy trình bảo lãnh để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả, giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và chi phí khi tiếp cận vốn. 

Xác định kinh tế tư nhân là đối tượng phục vụ chính, thời gian qua, các ngân hàng tích cực tung ra nhiều gói vay ưu đãi tập trung vào đối tượng này. Theo NHNN, trong tổng dư nợ hơn 7 triệu tỷ đồng cho vay kinh tế tư nhân, hiện có 100 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) với tổng dư nợ đạt 2,74 triệu tỷ đồng, tăng 10,7% so với cuối năm 2023, chiếm 17,6% dư nợ nền kinh tế; có 208.992 DNNVV còn dư nợ.   

Các ngân hàng thương mại nhà nước dẫn đầu trong tiếp vốn cũng như hỗ trợ khu vực kinh tế tư nhân. Bà Phùng Thị Bình, Phó tổng giám đốc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) cho biết, hiện ngân hàng đang có quy mô dư nợ 1,74 triệu tỷ đồng, trong đó 90% dành cho khu vực kinh tế tư nhân.

"Số liệu trên thể hiện chúng tôi rất quan tâm đến đối tượng khách hàng kinh tế tư nhân, đặc biệt là khi Agribank luôn gắn với sứ mệnh phát triển nông nghiệp nông thôn và nông dân. Hiện nay, Agribank đang triển khai 9 chương trình tín dụng ưu đãi dành cho tất cả các đối tượng, trong đó có 8 chương trình dành cho hộ kinh tế tư nhân, bao gồm doanh nghiệp xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sản xuất kinh doanh tiêu dung,... Trong các chương trình này, lãi suất được áp dụng thấp hơn cho vay thông thường từ 1-2% và có các chương trình ưu đãi cho xuất nhập khẩu, tham gia vào chuỗi giá trị. Để các hộ kinh tế tư nhân, cụ thể là doanh nghiệp nhỏ và vừa, xích lại gần với ngân hàng hơn, Agribank triển khai liên kết với hộ nông dân, hội phụ nữ", bà Bình cho biết.

Hiện tại, nhu cầu vốn của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu tăng trưởng GDP từ 8% trở lên là rất lớn, điều này cũng tạo nhiều áp lực huy động vốn cho các ngân hàng. Để đáp ứng cầu vốn của nền kinh tế, bên cạnh đề xuất được giữ lại lợi nhuận để tăng vốn điều lệ, Agribank cũng đang tích cực đa dạng hóa các kênh huy động vốn, giữ ổn định lãi suất huy động để có thêm dư địa hạ lãi suất cho vay hỗ trợ doanh nghiệp.

Các ngân hàng TMCP tư nhân cũng đang tích cực triển khai nhiều chương trình ưu đãi tới khu vực doanh nghiệp tư nhân. Đơn cử, LPBank đang dành hơn 15.000 tỷ đồng cho các chương trình vay vốn tín dụng ưu đãi, lãi suất vay linh hoạt. Ngay từ những tháng đầu năm 2025, LPBank “tung” Gói vay quy mô 8.000 tỷ đồng với ưu đãi lãi suất giảm sâu chỉ từ 4,8%/năm cho doanh nghiệp, đối với các khoản vay trung dài hạn, lãi suất chỉ từ 7%/năm với thời hạn cố định lên tới 12 tháng. LPBank cũng đang ưu tiên phát triển các sản phẩm tín dụng xanh dành cho các doanh nghiệp, hộ kinh doanh có ứng dụng công nghệ xanh, sản phẩm thân thiện với môi trường...  

Ông Nguyễn Văn Thân thừa nhận, hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn đang lệ thuộc lớn vào vốn ngân hàng, nhất là khi cơ chế trên thị trường vốn còn bất cập. Tuy vậy, ông Thân cũng lưu ý, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp, kinh doanh phải có lãi, phải đảm bảo an toàn vốn. Vì vậy, để ngân hàng yên tâm cho vay, doanh nghiệp phải cho ngân hàng thấy được tiềm năng phát triển của mình. 

Room ngoại tại nhiều ngân hàng đã được lấp đầy

Số liệu từ Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC) cập nhật đến ngày 13/3/2025 cho thấy, tỷ lệ sở hữu nước ngoài (room ngoại) tại nhiều ngân hàng Việt Nam đã được lấp đầy, với tỷ lệ tối đa 30%.

Trong phiên giao dịch 5/3/2025, cổ đông chiến lược nước ngoài tại VIB là Commonwealth Bank of Australia (CBA) đã thực hiện tiếp kế hoạch thoái vốn khi bán ra hơn 128 triệu cổ phiếu VIB, tổng giá trị ước khoảng 2.600 tỷ đồng. Trước khi giao dịch diễn ra, CBA chỉ còn sở hữu hơn 140 triệu cổ phiếu VIB (chiếm tỷ lệ 4,7% vốn điều lệ).

Trước đó, CBA cho biết kế hoạch thoái vốn để tập trung vào thị trường ngân hàng tại Australia và New Zealand, đồng thời sẽ phân loại lại cổ phiếu VIB từ đầu tư vào công ty liên kết thành chứng khoán đầu tư. Trong phiên giao dịch 24/9/2024, CBA đã bán gần 150 triệu cổ phiếu VIB, thu về khoảng 2.700 tỷ đồng và bán 300 triệu cổ phiếu VIB trong phiên 29/10/2024, thu về khoảng 5.400 tỷ đồng.

Mới đây nhất, Pyn Elite Fund thông báo đã bán hơn 1,11 triệu cổ phiếu STB của Sacombank trong phiên 26/2/2025, giảm tỷ lệ sở hữu từ 6,02% (113,5 triệu cổ phiếu) xuống 5,96% (112,4 triệu cổ phiếu). Ước tính quỹ ngoại này thu về 42,8 tỷ đồng từ giao dịch này.

Các quỹ thuộc Dragon Capital cũng thoái vốn tại Sacombank. Cụ thể, Norges Bank giảm tỷ lệ sở hữu tại Sacombank từ 1,27% xuống 1,1%. Còn Amersham Industries Limited đã thoái vốn sau 3 tuần, bán hơn 19 triệu cổ phiếu và rút khỏi danh sách cổ đông lớn của Sacombank.

Portal Global Limited giảm sở hữu tại OCB khi bán ra hơn 40 triệu cổ phiếu OCB, giảm từ hơn 62 triệu cổ phiếu (tương đương gần 3,03% vốn) về còn hơn 21 triệu cổ phiếu, không còn trong danh sách cổ đông sở hữu trên 1% vốn điều lệ ngân hàng.

Những động thái trên cho thấy, các quỹ ngoại đang điều chỉnh danh mục đầu tư, giảm tỷ lệ sở hữu tại một số ngân hàng Việt, song nhiều quỹ ngoại lại tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này. Chẳng hạn, BIDV vừa phát hành riêng lẻ thành công hơn 123,8 triệu cổ phiếu, với giá bán 38.800 đồng/cổ phiếu, thu về hơn 4.805 tỷ đồng. Trong đó, các nhà đầu tư trong nước mua vào 38,7 triệu cổ phiếu và các nhà đầu tư nước ngoài mua vào gần 85,2 triệu cổ phiếu.

Cuối năm 2024, lãnh đạo Techcombank đã thông tin về việc cân nhắc bán 10-15% cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược dài hạn, đặc biệt ưu tiên các đối tác có năng lực về công nghệ. Tại thời điểm đó, room ngoại là 22%, nhưng Techcombank vẫn đánh giá, tỷ lệ 15% là khả thi, do một cổ đông sở hữu 8-9% cổ phần đang có kế hoạch thoái vốn, tạo điều kiện để thực hiện thương vụ này.

Hay HDBank đã xin ý kiến cổ đông về việc tạm khóa room ngoại từ mức 20% xuống 17,5%, nhằm chuẩn bị sẵn sàng cho các Dự án chiến lược thời gian tới đây. 

Theo số liệu từ Tổng công ty Lưu ký và Bù trừ Chứng khoán Việt Nam (VSDC), cập nhật đến ngày 13/3/2025, nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ hơn 13,7 tỷ số lượng chứng khoán tại các 27 ngân hàng được thống kê. Hiện room ngoại tại nhiều ngân hàng Việt Nam đã được lấp đầy, với tỷ lệ tối đa 30%.

Đồng thời, thống kê từ VSDC cho thấy, đến ngày 13/3/2025, có khoảng 13 ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài trên 15%, trong đó một số ngân hàng đã kín hoặc gần kín room ngoại như ACB, TPBank. Một số ngân hàng duy trì tỷ lệ sở hữu nước ngoài thấp hơn mức tối đa theo quy định như Sacombank (22,07%), Vietcombank (22,72%), VPBank (24,87%)... Các ngân hàng MB, Techcombank có room ngoại thấp hơn, nhưng cũng đã kín room.

Hiện tại, VPBank tạm thời có số lượng chứng khoán nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ nhiều nhất, với hơn 1,97 tỷ chứng khoán, tương đương tỷ lệ 24,87%. Trong khi đó, đầu năm, các nhà đầu tư ngoại nắm đến hơn 1,98 tỷ chứng khoán, tỷ lệ sở hữu lên tới 25,06% (cập nhật ngày 3/1/2025).

Techcombank là ngân hàng có sự tham gia của các cổ đông nước ngoài với tỷ lệ sở hữu tối đa ở mức 22,5136%. Theo ghi nhận mới nhất, các nhà đầu tư nước ngoài nắm hơn 1,59 tỷ chứng khoán, tỷ lệ sở hữu tương ứng là 22,51%, tăng 0,01 điểm % so với tỷ lệ sở hữu ghi nhận đầu năm.

Tại VietinBank, nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ hơn 1,4 tỷ chứng khoán, tương ứng tỷ lệ sở hữu là 26,78%. MUFG Bank, Ltd là tổ chức nắm giữ nhiều cổ phiếu VietinBank nhất, với gần 1,06 tỷ cổ phiếu, tương đương 19,73% vốn điều lệ ngân hàng tính đến ngày 14/2/2025.

Nhà đầu tư nước ngoài đang nắm giữ tỷ lệ sở hữu cao tại các ngân hàng MB (1,4 tỷ chứng khoán, tỷ lệ 23,25%), ACB (1,34 tỷ chứng khoán, tỷ lệ 30%), Vietcombank (1,27 tỷ chứng khoán, tỷ lệ 22,72%). Theo thống kê, 13 nhà băng có tỷ lệ sở hữu cổ đông ngoại dưới 5%.

Một số ngân hàng có tỷ lệ sở hữu nước ngoài rất thấp, thậm chí chưa sử dụng đến room ngoại như Bac A Bank, Nam A Bank, BVBank, KienLongBank, LPBank, VietABank, Vietbank… Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng đã khóa room ngoại ở mức rất thấp để chờ đối tác chiến lược như LPBank (5%), SeABank (5%), BVBank (5%), VIB (4,99%) để tăng thêm vốn.

Sửa đổi, bổ sung quy định về nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 69/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 3/1/2014 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Nghị định 69/2025/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày 19/5/2025.

Về hình thức mua cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài, khoản 2 Điều 6 Nghị định 01/2014/NĐ-CP quy định: Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong trường hợp tổ chức tín dụng cổ phần bán cổ phần để tăng vốn điều lệ hoặc bán cổ phiếu quỹ. 

Còn theo Nghị định số 69/2025/NĐ-CP, nội dung trên được sửa đổi, bổ sung như sau: Nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần trong trường hợp tổ chức tín dụng chào bán cổ phần, phát hành cổ phần để tăng vốn điều lệ hoặc bán cổ phiếu quỹ được tổ chức tín dụng mua trước ngày 1/1/2021. 

Như vậy, theo quy định mới, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được mua cổ phiếu quỹ trong trường hợp cổ phiếu quỹ đó được tổ chức tín dụng mua trước ngày 1/1/2021.

Ngân hàng nhà nước cho biết, theo Luật chứng khoán năm 2006, cổ phiếu quỹ được hiểu là lượng cổ phiếu đã phát hành, sau đó được chính công ty đại chúng phát hành mua lại. Khi mua cổ phiếu quỹ xong, công ty đại chúng sau khi được sự đồng ý của cổ đông, có thể tiến hành hủy cổ phiếu quỹ, hoặc có thể giữ lại và bán ra lại thị trường khi cần vốn. 

Tuy nhiên Luật Chứng khoán năm 2019 được ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, công ty đại chúng sẽ tiến hành hủy lượng cổ phiếu quỹ đã mua, không còn được sử dụng để bán hoặc dùng làm cổ phiếu thưởng, không quy định việc bán lại cổ phiếu quỹ (trừ một số trường hợp theo khoản 7 điều 36 Luật Chứng khoán).

Về tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài, Nghị định số 69/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 7 Nghị định 01/2014/NĐ-CP như sau: "5. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại các khoản 6, 6a Điều này hoặc trong thời gian thực hiện quy định tại khoản 9 Điều 14 Nghị định này. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 50% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt Nam, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều này."

Trong khi đó, khoản 6 Điều 7 Nghị định 01/2014/NĐ-CP cũng được sửa đổi, bổ sung: "6. Trong trường hợp đặc biệt để bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài, một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng cổ phần yếu kém, gặp khó khăn vượt giới hạn quy định tại các khoản 2, 3, 5 Điều này đối với từng trường họp cụ thể."

Đồng thời, Nghị định số 69/2025/NĐ-CP cũng bổ sung khoản 6a vào sau khoản 6 Điều 7 Nghị định 01/2014/NĐ-CP: "6a. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc (không bao gồm các ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ) được vượt 30% nhưng không vượt quá 49% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc theo phương án chuyển giao bắt buộc đã được phê duyệt và được thực hiện trong thời hạn của phương án chuyển giao bắt buộc".

Về nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài, Nghị định số 69/2025/NĐ-CP bổ sung quy định: Khi nhà đầu tư nước ngoài mua thêm cổ phần do tổ chức tín dụng chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong tổ chức tín dụng mà bị vượt giới hạn về tỷ lệ sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại Điều 7 Nghị định này thực hiện như sau:

- Trường hợp một nhà đầu tư nước ngoài, một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan bị vượt giới hạn quy định tại Điều 7 Nghị định này, trong thời hạn tối đa 6 tháng kể từ thời điểm bị vượt giới hạn nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần, đảm bảo tuân thủ giới hạn quy định tại Điều 7 Nghị định này. 

- Trường hợp tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài bị vượt giới hạn quy định tại Điều 7 Nghị định này thì nhà đầu tư nước ngoài không được mua thêm cổ phần của tổ chức tín dụng đó cho đến khi tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tuân thủ quy định tại Điều 7 Nghị định này.

Kể từ thời điểm kết thúc thời hạn thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc, nhà đầu tư nước ngoài không được mua thêm cổ phần của ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc đó (trừ trường hợp ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc chào bán cổ phần cho cổ đông hiện hữu hoặc nhà đầu tư nước ngoài bán cổ phần đang sở hữu của ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc đó cho nhà đầu tư nước ngoài khác theo thỏa thuận) cho đến khi tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng thương mại nhận chuyển giao bắt buộc đó thấp hơn 30% vốn điều lệ.

Vietcombank tiếp tục thương vụ tỷ USD năm nay, BIDV sắp thu về 4.800 tỷ đồng nhờ bán vốn

Theo Công ty Chứng khoán MBS, thương vụ phát hành riêng lẻ 6,5% vốn của Vietcombank sẽ diễn ra trong năm nay. Trong khi đó, BIDV cũng kỳ vọng thu về 4.803 tỷ đồng nhờ việc phát hành riêng lẻ 123,8 triệu cổ phiếu trong quý I/2025.

Trước yêu cầu tăng vốn ngày càng cấp bách, các thương vụ bán vốn của hai ông lớn trong nhóm big 4 được kỳ vọng sẽ diễn ra trong năm nay.

Theo chuyên gia phân tích MBS, hiện hầu hết các ngân hàng đã hoàn thành yêu cầu về tỷ lệ vốn cấp 1 (CAR Tier 1) theo tiêu chuẩn Basel III. Các ngân hàng đang có xu hướng nâng cấp tiêu chuẩn quản trị rủi ro theo Basel III nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh với các tổ chức tín dụng toàn cầu.

Một trong những yêu cầu quan trọng của Basel III đối với CAR Tier 1 là đạt tối thiểu 6%. Theo báo cáo CAR của các ngân hàng tại 31/12/2024, phần lớn các ngân hàng đã đạt được yêu cầu này. Riêng BIDV và VietinBank có CAR Tier 1 tương đối thấp hơn so với các ngân hàng khác, cho thấy hai ngân hàng này sẽ chịu áp lực lớn hơn trong việc tăng vốn để bổ sung CAR.  

Cũng theo MBS, thương vụ phát hành riêng lẻ 6.5% vốn của Vietcombank dự kiến sẽ được thực hiện năm nay, giá trị ước tính khoảng 1 tỷ USD. Trước đó, Vietcombank dự kiến thực hiện thương vụ năm 2024, nhưng sau đó đã được hoãn lại.

BIDV có thể sẽ hoàn tất bán vốn sớm hơn. Cụ thể, ngân hàng có kế hoạch phát hành riêng lẻ 123,8 triệu cổ phiếu cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp trong quý I/2025 với giá 38.800 đồng/cổ phiếu, kỳ vọng huy động hơn 4.803 tỷ đồng. Nếu giao dịch diễn ra thuận lợi, vốn điều lệ của ngân hàng sẽ vượt 70.200 tỷ đồng.

“Chúng tôi kỳ vọng đợt phát hành này sẽ giúp tỷ lệ CAR của BIDV đạt khoảng 10% vào cuối năm 2025”, MBS nhận định.

Trước đó, ngày 7/1/2025, HĐQT BIDV đã có Nghị quyết thông qua việc triển khai phương án chào bán riêng lẻ 123,8 triệu cổ phiếu cho các nhà đầu tư. Tỷ lệ chào bán tương đương 1,8% số cổ phiếu đang lưu hành tại thời điểm ngày 31/12/2024.

Giá chào bán được xác định là 38.800 đồng/cổ phiếu, tương đương thu về hơn 4.800 tỷ đồng. Số tiền này sẽ được BIDV bổ sung vốn kinh doanh, hoạt động tín dụng (4.084 tỷ đồng), hoạt động đầu tư (481 tỷ đồng), đầu tư cơ sở vật chất, công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của mạng lưới kinh doanh (240 tỷ đồng).

Dự kiến có 5 tổ chức tham gia mua trong đợt phát hành này, trong đó có 4 nhà đầu tư nước ngoài và 1 nhà đầu tư trong nước.

Trong đó, Vietnam Enterprise Investments Limited (VEIL) đăng ký mua khối lượng lớn nhất với gần 59 triệu cp, chiếm 47,7% tổng lượng chào bán. Ngoài ra, Hanoi Investments Holdings Limited (Hanoi) đăng ký mua 15,7 triệu cổ phiếu; DC Developing Markets Strategies Public Limited Company là 8,5 triệu cổ phiếu; Samsung Vietnam Securities Master Investment Trust (SSMIT) mua hơn 1,9 triệu cổ phiếu. Nhà đầu tư trong nước là Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đăng ký mua 38,7 triệu cổ phiếu.

Đợt chào bán dự kiến triển khai trong quý I/2025. Cổ phiếu chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp sẽ bị bán chế chuyển nhượng 1 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành.

Với Vietcombank, tại ĐHĐCĐ bất thường tháng 8/2024, Chủ tịch HĐQT, ông Nguyễn Thanh Tùng kỳ vọng thương vụ bán vốn có thể hoàn thành trong nửa đầu năm 2025 nếu thị trường diễn biến thuận lợi.

Chuyên gia lý giải nguyên nhân giá vàng vọt lên 100 triệu đồng/lượng
Kỳ vọng giá vàng tiếp tục tăng, nguồn cung khan hiếm trong khi giá vàng thế giới tăng vọt, nỗi lo lạm phát, lãi suất tiết kiệm thấp… là những...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư