Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Chủ Nhật, Ngày 19 tháng 05 năm 2024,
Tiêu điểm đầu tư tuần qua
Đầu tư cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang; 230 tỷ đồng xây kè sông Trà Khúc
Hạnh Nguyên (tổng hợp ) - 20/08/2023 09:56
 
Quảng Ngãi đầu tư 230 tỷ đồng xây kè chống sạt lở bờ Bắc sông Trà Khúc; Đầu tư cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang đoạn trên địa bàn Tuyên Quang… Đó là hai trong số nhiều thông tin đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.

TP.HCM muốn thu hút doanh nghiệp Israel đầu tư vào các ngành công nghệ cao

TP.HCM mong muốn thúc đẩy hợp tác và thu hút doanh nghiệp Israel đầu tư vào các lĩnh vực mà thành phố đang có nhu cầu lớn như kinh tế số, khoa học công nghệ, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, quản trị đô thị…

doanh nghiệp trao đổi
Doanh nghiệp Việt Nam và Israel trao đổi về cơ hội hợp tác đầu tư kinh doanh tại TP.HCM ngày 15/8

Thông tin này được ông Võ Văn Hoan, Phó chủ tịch UBND TP.HCM cho biết tại Diễn đàn kinh tế và Giao thương doanh nghiệp Việt Nam – Israel diễn ra tại TP.HCM ngày 15/8.

Đánh giá về tiềm năng hợp tác đầu tư kinh doanh giữa doanh nghiệp của Israel với TP.HCM, ông Võ Văn Hoan cho rằng, việc ký kết Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam-Israel (VIFTA) sẽ mở ra những cơ hội hợp tác mới sâu rộng hơn cho Việt Nam và Israel.

Riêng TP.HCM với vai trò là trung tâm kinh tế và du lịch lớn nhất cả nước sẽ là thị trường rộng lớn, tiềm năng cho doanh nghiệp Israel đến đầu tư, kinh doanh.

Ông Hoan cho biết, TP.HCM mong muốn thúc đẩy hợp tác và thu hút doanh nghiệp Israel đầu tư vào các lĩnh vực mà thành phố đang có nhu cầu lớn như kinh tế số, khoa học công nghệ, nông nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo, quản trị đô thị…

Thông tin về Hiệp định VIFTA, ông Nir Barkat, Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Công nghiệp Israel cho biết, Việt Nam cũng là quốc gia đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á mà Israel ký kết hiệp định thương mại tự do.

Ông đánh giá Hiệp định VIFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội hợp tác mới cho hai nước. Trong đó doanh nghiệp Israel đến Việt Nam sẽ không chỉ tiếp cận thị trường gần 100 triệu dân mà từ đây có thể mở rộng sang các nước khác ở khu vực Đông Nam Á và cả khu vực châu Á -Thái Bình Dương.

Với việc ký kết VIFTA, Israel đang mở cửa nhiều hơn cho hàng hóa của Việt Nam thâm nhập trực tiếp vào thị trường tiêu dùng nội địa. Chính vì vậy, đây là cơ hội để hai bên đẩy mạnh thương mại và đầu tư, hình thành hệ sinh thái kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp hai quốc gia.

Ông Nir Barkat cho rằng các lĩnh vực mà Israel có thế mạnh và đang ưu tiên phát triển là công nghệ cao, y tế, du lịch, nông nghiệp, thực phẩm. Vì vậy, Israel muốn tạo quỹ đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam để đầu tư các lĩnh vực này. Do vậy, Việt Nam cần tạo hệ sinh thái thuận lợi để các doanh nghiệp Israel có cơ hội hợp tác, đầu tư.

Liên quan đến vấn đề đi lại, Bộ trưởng Nir Barkat mong muốn hai chính phủ cần xem xét mở đường bay thẳng giữa 2 nước để đi lại thuận lợi hơn. Hiện nay, để bay từ Israel đến TP.HCM, nhà đầu tư phải quá cảnh nhiều chặng bay, nên mất khá nhiều thời gian.

"Nếu có đường bay thẳng thì chỉ mất khoảng 8 giờ, điều này sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp 2 nước hơn", ông Nir Barkat khuyến nghị.

Đồng Nai: Giải ngân vốn tại 20 dự án trọng điểm mới đạt 11%

Tỉnh Đồng Nai đang thực hiện 20 dự án trọng điểm, với số vốn bố trí cho các dự án này năm 2023 là hơn 4.000 tỷ đồng, tuy nhiên đến nay mới giải ngân hơn 450 tỷ đồng (đạt hơn 11% kế hoạch).

Thi công đường dẫn cầu Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Dự án được đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước
Thi công đường dẫn cầu Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai

Ngày 15/8, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Nguyễn Hồng Lĩnh và quyền Chủ tịch UBND tỉnh Võ Tấn Đức đã chủ trì buổi làm việc với các sở, ngành, địa phương để nghe báo cáo tiến độ triển khai các Dự án trọng điểm trên địa bàn tỉnh.

Theo báo cáo của Sở Kế hoạch Đầu tư Đồng Nai, trên địa bàn tỉnh hiện có 20 dự án trọng điểm đang triển khai, đa phần là các dự án hạ tầng giao thông. Mặc dù các đơn vị, địa phương đã có nhiều cố gắng nhưng tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư tại các dự án rất chậm.

Năm 2023, số vốn được bố trí cho các dự án trọng điểm là hơn 4.000 tỷ đồng, tuy nhiên, đến nay mới giải ngân được hơn 450 tỷ đồng, đạt hơn 11% kế hoạch.

Theo đánh giá của Sở Kế hoạch và Đầu tư, so với kết quả giải ngân chung của tỉnh và cả nước thì số vốn giải ngân tại các dự án trọng điểm đạt rất thấp. Nguyên nhân chính dẫn đến giải ngân chậm vẫn là vướng mắc ở khâu bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Trước tình hình giải ngân vốn đầu tư công chậm, Sở Kế hoạch và Đầu tư đề xuất UBND tỉnh Đồng Nai cho rà soát để lên phương án điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025.

Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh sau điều chỉnh là hơn 93.000 tỷ đồng. Với số vốn đã bố trí tính đến hết năm 2023 là 35.000 tỷ đồng, trong 2 năm còn lại, Đồng Nai phải giải ngân được 58.000 tỷ đồng. Đây là thách thức rất lớn và rất khó để có thể hoàn thành được mục tiêu.

Chính vì vậy, việc rà soát, điều chỉnh lại kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn cho toàn giai đoạn 2021-2025 là rất cần thiết để phù hợp với tình hình huy động nguồn vốn, tính khả thi trong lộ trình giải ngân nguồn vốn.

Tại cuộc họp, ông Nguyễn Hồng Lĩnh, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai đánh giá, tỷ lệ giải ngân tại các dự án trọng điểm đến nay mới chỉ đạt 11% là con số quá thấp. Ông cho rằng những khó khăn, vướng mắc thì không chờ họp mới báo cáo mà phải báo cáo ngay cho những cơ quan có trách nhiệm xử lý. Hàng tháng, Tổ chỉ đạo thực hiện các dự án trọng điểm phải họp xử lý các nội dung liên quan và hàng tuần báo cáo cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy về tiến độ từng dự án.

Bí thư Tỉnh ủy yêu cầu, UBND tỉnh lập danh mục các dự án không có khả năng giải ngân để tính toán, điều chuyển nguồn vốn.

Đồng thời, chuẩn bị ngay kế hoạch triển khai các dự án đầu tư của năm 2024. Trong đó phải thực hiện ngay công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng cho những dự án khởi công trong năm 2024.

Cần Thơ sắp tổ chức Diễn đàn kinh tế thường niên năm 2023

Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ Nguyễn Văn Hồng vừa ký Quyết định số 1849/QĐ/-UBND phê duyệt Kế hoạch tổ chức Diễn đàn kinh tế thường niên TP. Cần Thơ năm 2023 với chủ đề “Vai trò và giải pháp liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long”.

Theo kế hoạch, Diễn đàn sẽ được tổ chức vào ngày 15/9/2023 tại Hội trường UBND TP. Cần Thơ, với quy mô 150 đại biểu.

Mục tiêu tổng quát của Diễn đàn nhằm tạo ra động lực phát triển mới khi các khu nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung, khu công nghệ cao trên địa bàn thành phố hình thành và phát triển; đặc biệt là Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) tại TP. Cần Thơ.

Mục tiêu cụ thể của Diễn đàn là nhằm chia sẻ, thảo luận kinh nghiệm từ các Dự án triển khai thành công, hiến kế giải pháp khả thi, biện pháp tổ chức triển khai từ các chuyên gia, các nhà khoa học, lãnh đạo các sở, ban ngành, lãnh đạo quận, huyện, viện, trường, doanh nghiệp, nhà đầu tư để làm kinh nghiệm cho thành phố trong việc triển khai có hiệu quả Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL tại TP. Cần Thơ.

Đồng thời, tham vấn ý kiến chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ quản lý, doanh nghiệp các giải pháp, cơ chế, chính sách trong việc huy động mọi nguồn lực để phát triển Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL tại TP. Cần Thơ như về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông (đường bộ, đường thủy) đồng bộ, kết nối, hiệu quả; tạo quỹ đất sạch; công tác giải phóng mặt bằng; tái định cư; sinh kế việc làm cho người dân tại vùng dự án.

Theo kế hoạch, nội dung chương trình Diễn đàn gồm: Báo cáo đề dẫn và những vấn đề đặt ra cho liên kết, sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL;

Phiên đối thoại 1: Thực trạng và vai trò liên kết, sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL;

Phiên đối thoại 2: Giải pháp tổ chức thực hiện hiệu quả, phát huy vai trò của Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL tại TP.Cần Thơ khi đi vào thực tiễn.

UBND TP. Cần Thơ giao Viện Kinh tế - Xã hội Thành phố là đơn vị tổ chức thực hiện Diễn đàn. Các đơn vị phối hợp tổ chức là Trung tâm Xúc tiến Đầu tư - Thương mại và Hội chợ triển lãm Cần Thơ; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Công thương; Sở Tài nguyên và Môi trường; Ban Quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Cần Thơ và các sở, ban ngành liên quan.

Được biết, vào ngày 11/1/2022, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 45/2022/QH15 về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP.Cần Thơ. Trong đó, đặc biệt là phân cấp quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai, quy hoạch; chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ và dự án Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp vùng ĐBSCL tại TP. Cần Thơ, nhằm thu hút nguồn lực từ mọi thành phần kinh tế, tạo ra các động lực tăng trưởng mới, tăng tính kết nối tiêu thụ và gia tăng giá trị sản phẩm, đẩy mạnh dịch vụ logistic, tăng tính cạnh tranh, thu hút lao động, ứng dụng khoa học, công nghệ nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội TP. Cần Thơ và cả Vùng.

Long An có 8 nhà máy điện năng lượng mặt trời đã đưa vào hoạt động

Theo UBND tỉnh Long An, đến nay, trên địa bàn tỉnh có 8 nhà máy điện năng lượng mặt trời đã đưa vào hoạt động với tổng công suất phát điện là 440,1 MWp; diện tích 494,8 ha.

Nhà máy điện mặt trời Solar Park 01 tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, do Công ty TNHH Hoàn Cầu Long An đầu tư. Ảnh Công ty

Đó là các nhà máy điện năng lượng mặt trời: BCG Băng Dương tại huyện Thạnh Hóa, quy mô công suất 40,6 MWp; TTC Đức Huệ 1, tại huyện Đức Huệ, quy mô công suất 49 MWp; Europlast tại huyện Đức Huệ, quy mô công suất 50 MWp; Solar Park 01 tại huyện Đức Huệ, quy mô công suất 50 MWp; Solar Park 02  tại huyện Đức Huệ; quy mô công suất 50 MWp; GAIA tại huyện Thạnh Hóa, quy mô công suất 100,5 MWp; Solar Park 03 tại huyện Đức Huệ, quy mô công suất 50 MWp; Solar Park 04 tại huyện Đức Huệ, quy mô công suất 50 MWp.

Bên cạnh đó, trên địa bàn tỉnh Long An còn có 1 Dự án nhà máy điện mặt trời đang triển khai đầu tư xây dựng (TTC Đức Huệ 2, công suất 49 MWp) và 10 dự án nhà máy điện mặt mặt trời đã được Bộ Công thương thẩm định nhưng chưa được bổ sung Quy hoạch phát triển điện lực (tổng công suất 1.180 MWp).

Hiện nay, hạ tầng cung cấp điện của tỉnh Long An ngày càng được cải thiện, đáp ứng cơ bản nhu cầu điện phục vụ ổn định sản xuất công nghiệp, thương mại - dịch vụ và điện sinh hoạt của nhân dân; tỷ lệ số hộ có điện là 99,97%.

Phú Yên chấm dứt hiệu lực Dự án Vùng nguyên liệu cho bò sữa 

UBND tỉnh Phú Yên vừa thống nhất chấm dứt hiệu lực chủ trương đầu tư Dự án Vùng nguyên liệu cho bò sữa của Công ty TNHH Sản xuất và Chế biến thức ăn gia súc Phú Yên dựa trên đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư.

UBND tỉnh Phú Yên cũng giao Sở Kế hoạch và Đầu tư rà soát các quy định pháp luật, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện các công việc tiếp theo theo đúng quy định.

Được biết, chủ đầu tư của Dự án Vùng nguyên liệu cho bò sữa Phú Yên đã có hồ sơ đề nghị chấm dứt hoạt động dự án.

Dự án Vùng nguyên liệu cho bò sữa do Công ty TNHH Sản xuất và Chế biến thức ăn gia súc Phú Yên được UBND tỉnh phê duyệt chủ trương tại Quyết định số 2539, ngày 26/12/2017; điều chỉnh chủ trương đầu tư vào ngày 15/5/2018.

Dự án được thực hiện tại xã Sơn Long và Sơn Hội, huyện Sơn Hòa; với tổng mức đầu tư 252 tỷ đồng.

Đây là 1 trong 17 dự án được UBND tỉnh Phú Yên trao Quyết định chủ trương đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tại Hội nghị xúc tiến đầu tư năm 2018. Theo tìm hiểu, dự án được thực hiện qua hình thức chủ đầu tư sẽ liên kết với người dân địa phương xây dựng vùng nguyên liệu thức ăn cho bò sữa (ngô, cỏ với diện tích khoảng 377 ha)  nhằm thay thế đất rừng cao su kém hiệu quả.

Bộ GTVT tham vấn UBND TP. Hà Nội về hướng tuyến, nhà ga đường sắt tốc độ cao

Bộ GTVT vừa có công văn số 8683/BGTVT – KHĐT gửi UBND TP. Hà Nội xin ý kiến về phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng thuộc Dự ánđường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, đoạn đi qua địa phận TP. Hà Nội.

Bản đồ hướng tuyến đường sắt tốc đô cao trên trục Bắc - Nam qua địa phận TP. Hà Nội.
Bản đồ hướng tuyến đường sắt tốc đô cao trên trục Bắc - Nam qua địa phận TP. Hà Nội.

Cụ thể, Bộ GTVT đề nghị UBND TP. Hà Nội có văn bản thống nhất về phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng của Dự án trên địa bàn TP. Hà Nội.

Tại công văn số 8683, Bộ GTVT cho biết, thực hiện Kết luận số 49-KL/TW ngày 28/2/2023 của Bộ Chính trị, căn cứ định hướng Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, ý kiến chỉ đạo của Ban cán sự đảng Chính phủ, Bộ GTVT đang rà soát, hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam và Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam.

Bộ GTVT dự kiến hoàn thiện Đề án trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 9/2023, trình Bộ Chính trị trong tháng 11/2023; hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình, phê duyệt chủ trương đầu tư trước năm 2025.

Liên quan đến phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng trên địa bàn TP. Hà Nội, Bộ GTVT cho biết là năm 2018, căn cứ kết quả nghiên cứu đề xuất của Tư vấn lập Dự án và theo đề nghị của Bộ GTVT, UBND TP. Hà Nội đã có ý kiến thống nhất về phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng.

Trên cơ sở đó Bộ GTVT đã hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi trình Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng thẩm định Nhà nước xem xét, thẩm định chủ trương đầu tư Dự án vào tháng 2/2019.

Năm 2022, trên cơ sở nghiên cứu độc lập của Tư vấn thẩm tra về phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng, cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định Nhà nước đã gửi xin ý kiến và UBND TP. Hà Nội đã có văn bản số 220/UBND-ĐT ngày 30/1/2023 đề nghị giữ nguyên phương án hướng tuyến đã được UBND TP. Hà Nội có ý kiến thống nhất với Bộ GTVT năm 2018, đồng thời có thể xem xét chấp thuận phương án mở rộng tổ hợp ga Ngọc Hồi để tích hợp nhà ga, depot của tuyến đường sắt tốc độ cao.

Tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định Nhà nước, để có cơ sở hoàn thiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án, ngày 21/7/2023, Bộ GTVT đã họp với 20 tỉnh/thành phố về rà soát, thống nhất phương án hướng tuyến, vị trí và quy mô nhà ga, đề pô, trạm bảo dưỡng.

Tại cuộc họp, trên cơ sở báo cáo của Ban Quản lý dự án đường sắt, Liên danh tư vấn lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án, các cơ quan đơn vị dự họp và ý kiến của Liên danh tư vấn thẩm tra, đại điện UBND TP. Hà Nội (Sở GTVT) đã thống nhất với phương án đề xuất của tư vấn.

Cụ thể, hướng tuyến đi qua địa phận TP. Hà Nội giữ nguyên phương án hướng tuyến đã được UBND TP. Hà Nội có ý kiến thống nhất với Bộ GTVT năm 2018, trong đó điểm đầu tuyến đường sắt tốc độ cao dừng tại tổ hợp ga Ngọc Hồi (sử dụng chung hạ tầng với tuyến đường sắt đô thị số 1 để tổ chức khai thác vận tải vào ga Hà Nội); mở rộng tổ hợp ga Ngọc Hồi để tích hợp nhà ga hàng hóa, depot của tuyến đường sắt tốc độ cao (phương án trước đây depot được bố trí ở Thường Tín).

Theo Bộ GTVT, tư vấn thẩm tra cũng như ý kiến của Hội đồng thẩm định nhà nước đều kiến nghị nghiên cứu bổ sung phương án tuyến ĐSTĐC cho khai thác hỗn hợp tàu hàng và tàu khách trong dải tốc độ thiết kế từ 200km/h – 250km/h.

Bộ GTVT cho rằng, với các chủ trương về phương án khai thác khác nhau nhưng nguyên tắc lựa chọn hướng tuyến về cơ bản là không khác nhau.

Theo đó, hướng tuyến đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc – Nam phải tuân thủ các quy hoạch có liên quan của TP. Hà Nội và Quy hoạch mạng lưới đường sắt thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Cụ thể, từ ga Ngọc Hồi, tuyến vượt qua đường vành đai và tuyến đường sắt vành đai phía Tây, qua địa phận các huyện Thường Tín, Phú Xuyên về phía Tây tuyến đường bộ cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ.

Sau khi vượt qua tuyến nối cao tốc Tây Bắc với Quốc lộ 5B, đường sắt cao tốc rẽ trái vượt đường bộ cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, đi về phía Đông, cùng hành lang tuyến đường bộ cao tốc và sang địa phận tỉnh Hà Nam.

Được biết, trên địa phận TP. Hà Nội, tư vấn thẩm tra đề xuất 2 nhà ga bao gồm 1 ga chính và 1 là ga tích hợp chung hành khách, hàng hóa.

Trong đó, ga Ngọc Hồi sẽ nằm trong khu tổ hợp Ngọc Hồi thuộc địa phận xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì; ga Ngọc Hồi 2 thuộc địa phận xã Phương Dực, huyện Phú Xuyên để kết nối với sân bay Hà Nội 2 trong tương lai, đồng thời tích hợp chung ga hành khách và ga hàng hóa để kết nối với hệ thống logistics ở Hà Nội và khu vực phía Bắc. Cự ly giữa các ga khoảng 14km.

Đơn vị tư vấn lập dự án cho rằng, việc bố trí như vậy sẽ không hiệu quả, ảnh hưởng tới khai thác tuyến đường sắt và làm tăng chi phí đầu tư của dự án.

Đồng thời, vị trí sân bay thứ 2 của Hà Nội chưa được xác định cụ thể trong Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050, do đó, việc kết nối chưa có tính khả thi cao.

Hà Nội: Xây dựng đường gom phía Đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ dài 19 km

Phó chủ tịch UBND TP. Hà Nội Dương Đức Tuấn đã ký ban hành Quyết định số 4021/QĐ-UBND về việc phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng đường gom phía Đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ đoạn qua địa phận huyện Thường Tín, huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội.

.
Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) là dự án giao thông nhóm A (Ảnh minh họa)

Dự án nhằm đầu tư xây dựng tuyến đường gom phía Đông đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, kết nối đồng bộ hệ thống đường giao thông trong khu vực với đường cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ. 

Đồng thời, phục vụ phát triển các khu, cụm và điểm công nghiệp phù hợp định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và phù hợp với quy hoạch chung của huyện Thường Tín, huyện Phú Xuyên, quy hoạch chung đô thị vệ tinh Phú Xuyên.

Dự án cũng góp phần hoàn chỉnh hệ thống giao thông theo quy hoạch, tạo ra tuyến đường giao thông có cơ sở hạ tầng kỹ thuật hoàn chỉnh; giảm ùn tắc giao thông và tạo mỹ quan đô thị cho huyện Phú Xuyên, huyện Thường Tín. Tuyến đường có chiều dài khoảng 18,970Km.

Điểm đầu tuyến Km2+441,00 tại vị trí nút giao với Tỉnh lộ 427 thuộc xã Vân Tảo, huyện Thường Tín; Điểm cuối tuyến tại Km21+410,80 tại vị trí đầu cầu chui đường cao tốc Pháp Vân - cầu Giẽ ra đường gom dân sinh của nút Đại Xuyên và đoạn đấu nối vào nút giao Đại Xuyên, gồm 1 cầu vượt trực thông qua đường cao tốc với 3 nhánh tuyến có chiều dài khoảng 2,2367Km.

Dự án do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông TP. Hà Nội làm chủ đầu tư, có thời gian thực hiện từ năm 2023 đến 2025.

Đầu tư cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang đoạn trên địa bàn Tuyên Quang

Văn phòng Chính phủ vừa có văn bản số 6281/VPCP-CN ngày 16/8/2023 truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Phó thủ tướng Trần Hồng Hà về việc đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1), đoạn trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang

Cụ thể, xét đề nghị của UBND tỉnh Tuyên Quang, ý kiến của một số Bộ liên quan về việc đầu tư xây dựng tuyến đường cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1), đoạn trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà có ý kiến như sau:

Về quy mô đầu tư Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Tuyên Quang: Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang tiếp tục đầu tư Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) đoạn qua tỉnh Tuyên Quang theo Quyết định số 17/2022/QĐ-TTg ngày 28/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ với quy mô 2 làn xe, phạm vi giải phóng mặt bằng theo quy mô 4 làn xe, đảm bảo tiến độ, chất lượng, hiệu quả và đúng quy định.

Đối với việc đầu tư xây dựng hoàn chỉnh (giai đoạn 1) theo quy mô 4 làn xe: Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính, Bộ Giao thông vận tải và các cơ quan liên quan rà soát nguồn vốn và khả năng cân đối vốn (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương), báo cáo Thủ tướng Chính phủ phương án triển khai phù hợp.

Dự án cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang (giai đoạn 1) là dự án giao thông nhóm A, nằm trong Quy hoạch mạng lưới giao thông đường bộ, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng phê duyệt và phân cấp cho UBND tỉnh Hà Giang phê duyệt dự án đầu tư.

Dự án có tổng chiều dài 104,5 km, trong đó 77 km thuộc tỉnh Tuyên Quang và 27,5 km thuộc tỉnh Hà Giang; điểm đầu tại nút giao cao tốc Tuyên Quang - Phú Thọ với quốc lộ 2D, thuộc xã Nhữ Khê, huyện Yên Sơn (Tuyên Quang); điểm cuối tại xã Tân Quang (Bắc Quang).

Đến nay, cao tốc Tuyên Quang - Hà Giang đã hoàn thành thủ tục thiết kế, lựa chọn nhà thầu thi công, đảm bảo tiến độ bồi thường, giải phóng mặt bằng, đủ điều kiện để khởi công xây dựng công trình.

Quảng Trị cấp phép đầu tư nhà máy sản xuất chế biến gỗ gần 60 tỷ đồng

Ngày 16/8, UBND tỉnh Quảng Trị đã có quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư với dự án Tổ hợp chế biến gỗ Quảng Trị.

Theo đó, Dự án do Công ty TNHH Gỗ Quốc gia – Chi nhánh Quảng Trị làm chủ đầu tư, với mục tiêu hoạt động là xây dựng Nhà máy viên gỗ nén và sản xuất sản phẩm khác từ gỗ; sản xuất sản phẩm từ tre, nứa, rơm, rạ và vật liệu tết bện với công suất tối đa 5.000 tấn/tháng.

Dự án có công suất sản xuất tối đa 5.000 tấn/tháng. Ảnh minh hoạ (Internet)
Dự án có công suất sản xuất tối đa 5.000 tấn/tháng. Ảnh minh hoạ (Internet)

Dự án có tổng mức đầu tư 59 tỷ đồng, trong đó vốn góp của nhà đầu tư 17,69 tỷ đồng và vốn vay 41,28 tỷ đồng. Thời hạn hoạt động của dự án là 50 năm, trong đó, dự kiến đến Quý IV/2024 dự án sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động.

Theo UBND tỉnh Quảng Trị cho biết, dự án được đầu tư tại cụm công nghiệp Quốc lộ 9D, Phường 4, TP. Đông Hà thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn nên được áp dụng một số ưu đãi đầu tư theo quy định như  miễn, giảm thiều thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất; Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp.

UBND tỉnh Quảng Trị cũng yêu cầu Công ty TNHH Gỗ Quốc gia – Chi nhánh Quảng Trị thực hiện dự án đúng tiến độ quy định, thực hiện nghĩa vụ ký quỹ đầu tư bảo đảm thực hiện dự án theo quy định của Luật Đầu tư. Đồng thời làm việc với UBND TP. Đông Hà để đưa dự án vào kế hoạch sử dụng đất hàng năm.

Được biết, Công ty TNHH Gỗ Quốc gia – Chi nhánh Quảng Trị có trụ sở đăng ký tại số 235 đường Hàm Nghi, Phường 5, TP. Đông Hà, tỉnh Quảng Trị. Doanh nghiệp do ông Đinh Quang Cường (SN 1991, thường trú tại TP. Hà Nội) làm giám đốc và là người đại diện pháp luật.

Kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII cần tránh dàn trải

Kế hoạch phải đưa ra được tiến độ theo từng năm cho từng loại hình dự án nguồn và lưới điện trong danh mục thực hiện giai đoạn 2023 - 2030, thay vì chỉ đưa ra theo giai đoạn hoặc theo năm mục tiêu như dự thảo hiện nay. 

Mô hình Dự án điện khí LNG Hải Lăng. 

Đây là nhận xét trong tham luận được Tập đoàn T&T gửi tới Hội thảo “Triển khai Quy hoạch Điện VIII - những thách thức và gợi ý chính sách” diễn ra sáng nay, ngày 17/8 tại TP.HCM.

Theo Tập đoàn T&T Group, ở các Dự án điện gió hiện chưa thấy có tiêu chí hoặc thuật ngữ định nghĩa thế nào là một dự án điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi. Do vậy, cần phân định cụ thể trong kế hoạch thực hiện Quy hoạch Điện VIII ranh giới điện gió trên bờ và ngoài khơi.

Hiện nay, trong dự thảo kế hoạch thực hiện đang gộp điện gió trên bờ và gần bờ thành một loại hình dự án trong khi đặc tính, đặc điểm của điện gió trên bờ và gần bờ là không giống nhau về môi trường đầu tư, chi phí lắp đặt, giá thành điện quy dẫn (LCOE) và điều kiện vận hành

Vẫn theo nhận xét này, trong Quy hoạch Điện VIII, mục tiêu phát triển điện gió, bao gồm cả điện gió ngoài khơi và điện gió trên bờ đạt 27.880 MW vào năm 2030 (trong đó điện gió ngoài khơi là 6.000 MW, còn điện gió trên bờ là 21.880 MW) là khá lớn về quy mô trong khi xuất phát điểm (tính từ năm 2023) như hiện nay sẽ là thách thức rất lớn về tiến độ, đặc biệt là đối với điện gió ngoài khơi, nếu không có được lộ trình thuyết phục thì rất khó đạt được quy mô lắp đặt 6.000 MW vào năm 2030, bởi thời gian còn lại chỉ là 7 năm.

Phát biểu tại Hội thảo, bà Nguyễn Thị Thanh Bình, Phó tổng giám đốc T&T Group cho hay, điện gió ngoài khơi chiếm tỷ trọng lớn trong Quy hoạch Điện VIII tới năm 2030 cũng như năm 2050, nhưng tới nay cơ quan trực tiếp tham mưu, ban hành cơ chế chính sách vẫn chưa đưa ra các cơ chế chính sách và thực tế là đang thiếu. Điều này khiến điện gió ngoài khơi triển khai rất chậm so với mục tiêu mong muốn.

“Rất mong Bộ Tài nguyên và Môi trường sớm cấp phép cho khảo sát các dự án điện gió ngoài khơi ngoài 6 hải lý”, bà Bình nói và cho hay, thời gian còn lại (tới năm 2030) là rất ít, trong khi khảo sát chiếm thời gian rất dài, nếu chúng ta không ngay lập tức triển khai việc cấp phép và khảo sát thì thực sự khó khăn trong việc triển khai các dự án điện gió ngoài khơi để đảm bảo tiến độ.

Đồng thời, đại diện T&T Group cũng đề nghị, có cơ chế chuyển tiếp hoặc thí điểm trước khi thực hiện đấu thầu đấu giá tại Việt Nam, áp dụng cho 6.000 MW đầu tiên giai đoạn đến 2030. Bởi đây là giai đoạn đầu khởi động, định hình phát triển một ngành công nghiệp mới, hiện đại ở Việt Nam.

Tương tự như vậy, tham luận của T&T Group cũng lo ngại về tiến độ thực hiện các dự án điện khí LNG. Để xây dựng mới 22.400 MW điện khí LNG vào năm 2030 là một thách thức rất lớn về tiến độ, đặc biệt là công việc đàm phán hợp đồng mua bán điện.

“Hiện các nhà máy đều mong muốn có một tỷ lệ cam kết về sản lượng điện hợp đồng ở mức mong muốn (hợp lý) đề phù hợp với khả năng huy động vốn cho thực hiện dự án và thu hồi được chi phí đầu tư”, tham luận cho hay.

Ở một khía cạnh khác, T&T Group cũng nhận xét, ngày 7/1/2023, Bộ Công thương ban hành Quyết định số 21/QĐ-BCT về khung giá phát điện nhà máy điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp trong đó có biểu giá điện (giá trần, giá cao nhất).

Theo biểu giá này sẽ “bãi bỏ thời hạn áp dụng giá mua điện trong thời hạn 20 năm; bãi bỏ điều khoản chuyển đổi tiền mua điện sang USD và bãi bỏ điều khoản Bên mua điện có trách nhiệm mua toàn bộ sản lượng điện từ dự án điện mặt trời, điện gió chuyển tiếp nối lưới…”.

“Hiện nay, nhiều nhà đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông tư số 15/2022/TT-BCT và Quyết định 21/QĐ-BCT đều có chung sự lo lắng, bất an và quan ngại về việc không thể đảm bảo hiệu quả đầu tư do không đảm bảo các chỉ số kinh tế - tài chính khi áp dụng khung giá điện mới ban hành với mức giảm từ khoảng 21-29% (tính theo giá trị USD tương tương) so giá FIT tại Quyết định 13/2020/QĐ-TTg (cho điện mặt mặt trời) và Quyết định 39/2018/QĐ-TTg (cho điện gió) và có thể đối diện với nguy cơ phá sản…”, tham luận nhận xét.

Bởi vậy, T&T Group cũng đề nghị, sớm xây dựng cơ chế phát triển (chính sách, cơ chế giá) đối với các dự án năng lượng tái tạo mới

Cụ thể, các dự án này có áp dụng theo Thông tư 15 hay không? Nếu không thì cần sớm xây dựng và ban hành chính sách giá. Lưu ý rằng Bộ Công thương đã từng đề xuất và đề nghị Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cơ chế đàm phán giá điện và hợp đồng mua bán điện đối với các dự án NLTT mới tương tự như áp dụng tại Thông tư số 15 vừa ban hành ngày 3/10/2022 (Tờ trình số 4778/TTr-BCT ngày 11/8/2022).

Trong trường hợp đề xuất và đề nghị này được thông qua sẽ có một số khó khăn, trở ngại cho thị trường phát triển điện gió và điện mặt trời ở Việt Nam giai đoạn tới. Đó là cách xây dựng và tính toán khung giá bán điện cho nguồn điện gió, điện mặt trời sẽ giống hoặc gần như tương đồng cách xây dựng, tính toán đối với các Nhà máy điện truyền thống như điện than, điện khí và thủy điện lớn.

Điều này lại chưa đúng tinh thần Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đã nêu là “xây dựng các cơ chế, chính sách đột phá để khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh mẽ các nguồn năng lượng tái tạo...”.

Đẩy nhanh bàn giao mặt bằng cho Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I

Ngày 16/8, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình Phan Mạnh Hùng đã có buổi làm việc với đoàn công tác của Văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về về phát triển Điện lực liên quan đến tình hình thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư Dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I.

Dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I thuộc Trung tâm Điện lực Quảng Trạch (quy hoạch trung tâm trên 540 ha). Dự án có vị trí tại thôn Vịnh Sơn, xã Quảng Đông, huyện Quảng Trạch với tổng diện tích khoảng 48,6 ha.

Dự án gồm 2 tổ máy với tổng công suất lắp đặt 1.200 MW, khi đi vào vận hành nhà máy sẽ cung cấp cho hệ thống điện Quốc gia sản lượng điện mỗi năm khoảng 8,4 tỷ kWh. Tổng mức đầu tư của dự án là 41.130 tỷ đồng.

Theo báo cáo của Ban quản lý Dự án điện 2 - Tập đoàn Điện lực Việt Nam (chủ đầu tư dự án) cho biết, đến nay, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đã hoàn thành và bàn giao cho nhà thầu thi công gồm các hạng mục: Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I; cảng nhập than; đê chắn sóng; sân phân phối; các hạng mục dùng chung như đường ống cấp thoát nước làm mát, băng tải than, đường ra cảng than và hệ thống bơm nước hồi, khu phụ trợ, kênh thoát nước hoàn trả…

Về công tác tái định cư, đến nay, dự án đã thực hiện 3 giai đoạn với tổng số 678 lô đất, trong đó các khu tái định cư giai đoạn 1 - 2 đã cơ bản xây dựng xong, giai đoạn 3 đang hoàn thiện. Dự kiến, dự án Nhà máy Nhiệt điện Quảng Trạch I sẽ hoàn thành tổ máy 1 vào tháng 6/2025 và tổ máy 2 vào tháng 12/2025.

Tại buổi làm việc, lãnh đạo UBND huyện Quảng Trạch đã nêu lên những khó khăn, vướng mắc trong công tác bàn giao mặt bằng cho dự án. Trong đó, nổi bật hiện nay là việc còn 1,8 ha chưa thể bàn giao mặt bằng để thi công trạm bơm nước làm mát; nhiều hộ dân chưa nhận tiền bồi thường, hỗ trợ do đơn giá thấp nên các hạng mục như băng tải than, đường ống xả nước làm mát, trạm bơm nước chưa được triển khai thi công.

Bên cạnh đó, một số hạng mục như bãi thải xỉ, tuyến đường ống cung cấp nước ngọt đi qua các xã trên địa bàn huyện vẫn còn vướng mắc trong phê duyệt phương án bồi thường do chênh lệch đơn giá hỗ trợ, bồi thường giữa các địa phương trong vùng dự án. Việc xác nhận lại hiện trạng sử dụng đất của những hộ dân bị ảnh hưởng cũng đang gặp một số vấn đề liên quan. Cũng như các vấn đề về vị trí đổ thải đất san lấp, chấp thuận phương án xử lý vật chất nạo vét, xác nhận nguồn gốc sử dụng đất của các hộ bị ảnh hưởng...

Tại buổi làm việc, đại diện Tập đoàn Điện lực Việt Nam đề nghị UBND tỉnh Quảng Bình chỉ đạo huyện Quảng trạch đẩy nhanh công tác di dời các ngôi mộ thuộc phạm vi Trạm bơm nước làm mát, hoàn thành trước ngày 30/8/2023 để nhà thầu triển khai thi công. Đồng thời, đẩy nhanh việc xác định nguồn gốc đất, danh sách các hộ dân trồng hoa màu, kiểm đếm tài sản trên đất; các thủ tục xác nhận hiện trạng sử dụng đất để lập, phê duyệt phương án bồi thường các phần còn lại các xã Quảng Hợp, Quảng Châu, Quảng Kim trong tháng 8/2023; chốt danh sách phê duyệt các hộ dân đủ điều kiện bố trí tái định cư trong tháng 8/2023; xem xét có ý kiến chính thức về việc nhận chìm vật chất nạo vét.

Ông Hoàng Trọng Hiếu, Phó chánh văn phòng Ban Chỉ đạo Quốc gia về phát triển Điện lực - Trưởng đoàn công tác cũng đề nghị Ban quản lý Dự án Điện 2 phối hợp chặt chẽ với địa phương để tháo gỡ các vướng mắc; đối với các mặt bằng, diện tích đã bàn giao, cần chỉ đạo các nhà thầu tập trung thi công để đẩy nhanh tiến độ dự án…

Phát biểu buổi làm việc, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình Phan Mạnh Hùng cho biết tỉnh Quảng Bình rất quyết liệt trong việc chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi nhất để triển khai các dự án tại Trung tâm điện lực Quảng Trạch. 

Để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, ông Phan Mạnh Hùng các sở, ngành, địa phương căn cứ chức năng, thẩm quyền tích cực phối hợp với chủ đầu tư để tập trung giải quyết các vướng mắc nhằm bảo đảm tiến độ đề ra; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các hộ dân cũng như tạo điều kiện thuận lợi nhất để chủ đầu tư thực hiện dự án.

Quảng Ngãi đầu tư 230 tỷ đồng xây kè chống sạt lở bờ Bắc sông Trà Khúc

Ngày 17/8, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã có quyết định phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng kè chống sạt lở, kết hợp tạo quỹ đất bờ Bắc sông Trà Khúc, đoạn qua 2 xã Tịnh An và Tịnh Long, TP.Quảng Ngãi.

Theo đó tổng chiều dài tuyến kè đầu tư xây dựng mới là 2.440 m, nằm trên địa bàn 2 xã Tịnh An và Tịnh Long, TP.Quảng Ngãi.

Đây là dự án đầu tư xây dựng công trình thủy lợi, nhóm B; có diện tích đất dự kiến sử dụng gần 47,4 ha, trong đó phần công trình kẻ là 5,16 ha.

Trong tổng mức đầu tư xây dựng 230 tỷ đồng, chi phí bồi thường, hỗ trợ tái định trên 50 tỷ đồng; chi phí xây dựng (kè) trên 153 tỷ đồng, còn lại là các khoản chi phí khác.

Nguồn vốn đầu tư từ nguồn thu tiền sử dụng đất của tỉnh và nguồn vượt thu ngân sách tỉnh năm 2021, 2022; thời gian thực hiện dự án năm 2023-2024. Dự án do Ban Quản lý dự án công trình giao thông tỉnh Quảng Ngãi làm chủ đầu tư.

Theo UBND tỉnh Quảng Ngãi, việc đầu tư xây dựng kè chống sạt lở và đầu tư cơ sở hạ tầng tạo quỹ đất bờ Bắc sông Trà Khúc để đấu giá tăng nguồn thu cho ngân sách.

Gần đây, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã triển khai nhiều công trình và dự án tạo cảnh quan, chống sạt lở, tạo quỹ đất để phát triển kinh tế, với số tiền đầu tư nhiều ngàn tỷ đồng dọc theo hạ lưu 2 bờ sông Trà Khúc, đoạn đi qua TP.Quảng Ngãi.

Trong số các công trình, dự án đầu tư gần đây, đáng chú ý như cầu Trà Khúc 1, với tổng vốn đầu tư 1.500 tỷ đồng; dự án kè chống sạt lở và tôn tạo cảnh quan bờ Nam sông Trà Khúc, với tổng vốn 380 tỷ đồng, nhằm tạo không gian kiến trúc cảnh quan, để xứng tầm khu vực cửa ngõ phía Bắc TP.Quảng Ngãi.

Hà Nội: Điều chỉnh mở rộng mặt cắt ngang dự án cầu Tân Phú bắc qua sông Đáy

UBND TP. Hà Nội vừa ban hành Quyết định số 3946/QĐ-UBND phê duyệt điều chỉnh chỉ giới đường đỏ, tỷ lệ 1/500 Dự án đầu tư xây dựng cầu Tân Phú bắc qua sông Đáy, thuộc địa phận huyện Quốc Oai và huyện Hoài Đức, TP. Hà Nội.

Theo đó, mặt cắt ngang cầu mở rộng mỗi bên thêm 0,5m. Quy mô mặt cắt cầu và đường hai đầu cầu sau điều chỉnh là 9m.

Các nội dung khác giữ nguyên theo Quyết định số 1016/QĐ-UBND ngày 24/3/2022 của UBND TP. Hà Nội về việc phê duyệt chỉ giới đường đỏ tỷ lệ 1/500 Dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Tân Phú bắc qua sông Đáy, thuộc địa phận huyện Quốc Oai và huyện Hoài Đức.

UBND TP. Hà Nội giao Sở Quy hoạch - Kiến trúc kiểm tra, xác nhận bản vẽ điều chỉnh chỉ giới đường đỏ, tỷ lệ 1/500 dự án đầu tư xây dựng công trình cầu Tân Phú.

Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông TP. Hà Nội chủ trì, phối hợp với UBND các huyện Hoài Đức, Quốc Oai, các cơ quan liên quan công bố công khai hồ sơ điều chỉnh chỉ giới đường đỏ, tỷ lệ 1/500 để các cơ quan, tổ chức, cá nhân và nhân dân biết, thực hiện.

Hải Dương điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án Cụm công nghiệp Thăng Long

Quyết định số 1696/QĐ-UBND của UBND tỉnh Hải Dương chấp thuận điều chỉnh tiến độ thực hiện Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp Thăng Long hoàn thành và đưa vào hoạt động đồng bộ trước ngày 3/7/2025.

Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật Cụm công nghiệp (CCN) Thăng Long tại thị xã Kinh Môn được được UBND tỉnh Hải Dương chấp thuận tại Quyết định chủ trương đầu tư số 4055/QĐ-UBND ngày 31/12/2020. Dự án có quy mô 61,8 ha, trong đó: diện tích xây dựng CCN Thăng Long là 49,7 ha; diện tích giao thông kết nối và phụ cận là 12 ha. Theo quyết định chủ trương đầu tư thì tiến độ thực hiện xây dựng hạ tầng kỹ thuật và sẽ đưa vào khai thác trong quý 4/2022.

Tuy nhiên, theo đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại Báo cáo thẩm định số 2121/BC-SKHĐT ngày 04/8/2023 và Hồ sơ đề xuất điều chỉnh Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật CCN Thăng Long, thị xã Kinh Môn của Công ty TNHH hạ tầng Thuận An Phát, UBND tỉnh Hải Dương đã chấp thuận điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án: Xây dựng hoàn thành và đưa dự án vào hoạt động đồng bộ trước ngày 3/7/2025. Ngoài nội dung điều chỉnh trên, các nội dung khác của dự án giữ nguyên theo Quyết định số 4055/QĐ-UBND ngày 31/12/2020 của UBND tỉnh Hải Dương. 

Theo đó, khu vực quy hoạch dự án thuộc địa phận xã Thăng Long, có ranh giới phía Đông Bắc giáp đường quy hoạch mở rộng đi xã Lạc Long; phía Tây Nam giáp hành lang tuyến ống dầu và đường quy hoạch; phía Đông Nam giáp đường quy hoạch, dân cư thôn Trung Hoà; phía Tây Bắc giáp Tỉnh lộ 389 và khu dân cư hiện có.

Các ngành nghề thu hút đầu tư là công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm; sản xuất truyền thống, thủ công mỹ nghệ; cơ khí chế tạo máy; sản xuất các sản phẩm tiêu dùng và các ngành công nghiệp hỗ trợ, các ngành, nghề, sản phẩm có thế mạnh địa phương; các ngành nghề có công nghệ sản xuất hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường, thu hút, giải quyết được nhiều lao động của địa phương. Quy hoạch phân khu các chức năng chính CCN bao gồm: Khu hành chính, dịch vụ; Khu nhà máy, xí nghiệp; Khu hạ tầng kĩ thuật và khu cây xanh.

Hiện trên địa bàn tỉnh đã thành lập 58 cụm công nghiệp với diện tích đất 2.934,42 ha, trong đó 32/58 cụm đã đi vào hoạt động, thu hút trên 400 Dự án đầu tư, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 10.000 tỷ đồng.

Trong định hướng giai đoạn 2021 - 2030, tỉnh Hải Dương quy hoạch có 33 khu công nghiệp với tổng quy mô là 5.661 ha, 61 cụm công nghiệp với tổng quy mô là 3.209 ha, 6 trung tâm logistics và phát triển một khu kinh tế chuyên biệt nằm ở phía Nam đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, thuộc hai huyện Bình Giang và Thanh Miện.

Quảng Nam đề nghị dừng nghiên cứu Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D theo hình thức PPP

Chủ tịch tỉnh Quảng Nam, ông Lê Trí Thanh vừa ký văn bản gửi Bộ Giao thông vận tải đề nghị báo cáo Thủ tướng Chính phủ thống nhất dừng nghiên cứu đầu tư Dự án Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D theo hình thức PPP (BOT) để chuyển sang hình thức đầu tư công.

Quốc lộ 14D nối từ Cửa khẩu Nam Giang đến cảng biển Quảng Nam.
Quốc lộ 14D nối từ Cửa khẩu Nam Giang đến cảng biển Quảng Nam.

Theo UBND tỉnh Quảng Nam, Bộ Giao thông vận tải đang giao cho Cục Đường bộ Việt Nam chuẩn bị, đề xuất dự án sử dụng vốn vay nước ngoài để nâng cấp, cải tạo các quốc lộ kết nối với Lào.

Vì vậy tỉnh đề nghị Bộ chỉ đạo Cục Đường bộ Việt Nam nghiên cứu, đề xuất, bổ sung dự án Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D tỉnh Quảng Nam vào danh mục các dự án sử dụng vốn vay nước ngoài để nâng cấp, cải tạo các quốc lộ kết nối với Lào.

Theo UBND tỉnh Quảng Nam, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiên cứu đầu tư tuyến đường nối từ Cửa khẩu Nam Giang đến cảng biển Quảng Nam, địa phương đã phối hợp với các đơn vị nghiên cứu các phương án đầu tư xây dựng.

Theo ý kiến của Bộ Giao thông vận tải thì phương án đầu tư tuyến đường hoàn toàn mới không khả thi, nên đề xuất nghiên cứu phương án mở rộng tuyến hiện trạng theo hình thức doanh nghiệp đầu tư không hoàn lại. Theo UBND tỉnh Quảng Nam, địa phương đã mời gọi đầu tư nhưng hiện nay không có doanh nghiệp tài trợ nguồn vốn để đầu tư theo hình thức trên.

Đối với phương án đầu tư theo hình thức BOT trên tuyến đường hiện có, Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải đề xuất 2 phương án đầu tư.  

Phương án 1 là đầu tư mở rộng toàn tuyến theo quy hoạch với tổng mức đầu tư khoảng 2.640,5 tỷ đồng. Trong đó ngân sách hỗ trợ 1.914 tỷ đồng, tương đương 72,5% tổng mức đầu tư và phần còn lại Nhà đầu tư thu phí hoàn vốn trong khoảng 20 năm.

Phương án 2 là đầu tư mở rộng các đoạn hiện có tiêu chuẩn kỹ thuật thấp và nâng cấp một số đoạn xuống cấp, với tổng mức đầu tư khoảng 730,3 tỷ đồng; ngân sách hỗ trợ 310,4 tỷ đồng, tương đương 42,5% tổng mức đầu tư và phần còn lại Nhà đầu tư thu phí hoàn vốn với xe tải thông quan qua Cửa khẩu Nam Giang trong khoảng 20 năm.

Theo tỉnh Quảng Nam, các phương án do Công ty cổ phần Tập đoàn Trường Hải đề xuất đều vướng mắc về pháp lý, phương án tài chính chưa đảm bảo nên khó thực hiện.  

Vì vậy, tỉnh Quảng Nam kiến nghị không thực hiện phương án đầu tư theo hình thức Hợp đồng BOT.

Hiện lưu lượng hàng hóa thông quan qua cửa khẩu Quốc tế Nam Giang ngày càng tăng; trong 6 tháng đầu năm 2023 xuất khẩu tăng 37,25%, nhập khẩu tăng 79%, quá cảnh tăng 40% so với cùng kỳ năm 2023. Do đó, việc đầu tư Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D là rất cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên các hình thức đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) đều không thể thực hiện trong giai đoạn hiện nay.

Tỉnh Quảng Nam đề nghị Bộ Giao thông vận tải báo cáo Thủ tướng Chính phủ có chủ trương dừng nghiên cứu đầu tư dự án Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D theo hình thức PPP (BOT) theo như Thông báo số 135/TB-VPCP ngày 06/5/2022 và số 165/TB-VPCP ngày 06/6/2022 của Văn phòng Chính phủ để chuyển sang hình thức đầu tư công.

Tỉnh Quảng Nam đề xuất Chính phủ bố trí nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2020-2025 và 2026-2030 để Mở rộng, nâng cấp Quốc lộ 14D, đầu tư theo 2 giai đoạn. Giai đoạn I, từ nay đến năm 2025 sẽ đầu tư mở rộng các đoạn hiện có tiêu chuẩn kỹ thuật thấp và nâng cấp một số đoạn xuống cấp, với tổng mức đầu tư khoảng 730,3 tỷ đồng.

Giai đoạn II từ giai đoạn 2026-2030 sẽ đầu tư mở rộng toàn tuyến theo quy hoạch được duyệt và tiêu chuẩn hiện hành, đảm bảo xe container vận tải đi lại thuận lợi, an toàn; với tổng mức đầu tư khoảng 2.000 tỷ đồng.

Đề xuất Dự án PPP đầu tư xây dựng cầu Đình Khao nối Vĩnh Long và Bến Tre

UBND tỉnh Vĩnh Long vừa có tờ trình số 138/TTr – UBND gửi Thủ tướng Chính phủ về Dự án đầu tư xây dựng cầu Đình Khao nối hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre.

Phối cảnh cầu Đình Khao.
Phối cảnh cầu Đình Khao.

Cụ thể, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long kiến nghị Thủ tướng xem xét, chấp thuận giao UBND tỉnh Vĩnh Long là cơ quan có thẩm quyền thực hiện Dự án đầu tư xây dựng cầu Đình Khao nối hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre theo phương thức PPP.

Ông Lữ Quang Ngời, Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long cho biết, việc đầu tư dự án đầu tư xây dựng cầu Đình Khao nối hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre theo phương thức PPP đã được Hội đồng nhân dân tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Bến Tre có Nghị quyết đồng thuận về đề xuất thực hiện dự án.

Ngoài ra, việc giao UBND tỉnh Vĩnh Long là cơ quan có thẩm quyền đã được sự thống nhất và có ý kiến của Bộ GTVT, Văn phòng Chính phủ và UBND tỉnh Bến Tre.

Dự án đầu tư xây dựng cầu Đình Khao có điểm đầu tại Quốc lộ 53 khoảng Km10, xã Long An, huyện Long Hồ, Vĩnh Long sau đó tuyến cắt qua Đường tỉnh 902 và vượt sông Cổ Chiên (tại vị trí cách phà Đình Khao khoảng 6,6Km về phía hạ lưu) đi qua cồn Phú Đa, cồn Phú Bình thuộc huyện chợ Lách, tỉnh Bến Tre sau đó vượt lạch sông Cổ Chiên và kết thúc tại vị trí giao với Quốc lộ 57 (Km12+200) hiện hữu.

Tổng chiều dài tuyến thuộc Dự án là hơn 11 Km. Dự án dự kiến được thực hiện theo hình thức PPP, hợp đồng BOT với tổng mức đầu tư trên 3.200 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách 50%, còn 50% còn lại là vốn doanh nghiệp và vốn đối ứng của hai tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long.

Theo UBND tỉnh Vĩnh Long, Quốc lộ 57 là tuyến giao thông nối hai tỉnh Vĩnh Long và Bến Tre qua phà Đình Khao. Điểm đầu tuyến giao với Quốc lộ 53, thuộc phường 4, TP. Vĩnh Long, đi qua các huyện Long Hồ (tỉnh Vĩnh Long), Chợ Lách, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam (tỉnh Bến Tre) và kết thúc tại xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Chiều dài tuyến khoảng 103,3 km, là trục giao thông xương sống và là trục đối ngoại quan trọng của tỉnh Bến Tre đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long theo hướng qua tỉnh Vĩnh Long nối ra Quốc lộ 1 hoặc theo Quốc lộ 60 qua cầu Cổ Chiên, Rạch Miễu. Đồng thời, đây là tuyến đường kết nối các đô thị như thị trấn Chợ Lách - thị trấn Mỏ Cày - thị trấn Thạnh Phú – TP. Vĩnh Long nên nhu cầu giao thông rất lớn.

Hiện tại để vượt qua sông Cổ Chiên trên Quốc lộ 57 từ Vĩnh Long qua Bến Tre các phương tiện phải qua phà Đình Khao, đây là điểm nghẽn cần sớm giải quyết.

Việc đầu tư xây dựng cầu Đình Khao thay thế phà sẽ góp phần hoàn thiện mạng lưới đường giao thông theo quy hoạch, kết nối các vùng đô thị là TP. Vĩnh Long, thị trấn Chợ Lách và thị trấn Mỏ Cày tỉnh Bến Tre đến Trà Vinh, Sóc Trăng, rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa, hành khách và đặc biệt là các mặt hàng thủy hải sản...

Mở không gian phát triển mới cho Thái Bình

Thái Bình là một tỉnh “đất chật, người đông”, quy mô diện tích khá nhỏ (chiếm 0,48% diện tích cả nước), xếp thứ 54/63 tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, về dân số, Thái Bình xếp thứ 11/63 tỉnh, thành phố; chiếm 1,9% dân số cả nước và có mật độ dân số gấp 4 lần trung bình cả nước.

Đại lộ Kỳ Đồng, TP. Thái Bình.

Vì vậy, mở ra không gian phát triển mới cho Thái Bình thông qua hoạt động “lấn biển” là giải pháp được đơn vị tư vấn đưa ra trong Dự thảo Quy hoạch tỉnh Thái Bình thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và được các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý hết sức quan tâm khi góp ý cho bản dự thảo, tại phiên họp của Hội đồng Thẩm định quy hoạch tỉnh hôm qua (17/8).

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, Chủ tịch Hội đồng Thẩm định quy hoạch tỉnh, bản quy hoạch cần nêu bật được các động lực phát triển mới, không gian phát triển mới để đưa Thái Bình phát triển bứt phá.

Theo phân tích của đơn vị tư vấn, Thái Bình nằm trong Hành lang kinh tế phía Đông, mặt tiền hướng ra biển của vùng Đồng bằng sông Hồng, với chuỗi liên kết các hoạt động kinh tế gắn biển như công nghiệp chế tạo, năng lượng, dịch vụ vận tải biển, du lịch, thủy sản, khai thác tài nguyên biển...

Là tỉnh đi sau, chịu tác động lan tỏa của các trung tâm kinh tế biển mạnh là Quảng Ninh, Hải Phòng, cùng với quá trình tăng cường nâng cấp hạ tầng kết nối ven biển, Thái Bình có nhiều dư địa để khai thác trong vai trò là một trung tâm mới thu hút các hoạt động công nghiệp, dịch vụ mới, hỗ trợ và kết nối các hoạt động chung của toàn vùng hướng mạnh vào các hoạt động kinh tế biển.

Hiện tại, Thái Bình có khoảng 16.637 ha đất mặt nước ven biển. Với đặc điểm địa hình địa chất, khu vực mặt nước ven biển của tỉnh rất thuận tiện để khai thác, đưa vào sử dụng cho các mục đích khác. Dự kiến, trong thời kỳ quy hoạch 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, sẽ khai thác đưa 2.550 ha đất mặt nước ven biển vào sử dụng cho mục đích xây dựng các Dự án trong khu kinh tế biển Thái Bình: Khu công nghiệp Thái Thượng, Khu công nghiệp Hoàng Long, Khu du lịch Cồn Đen, Khu du lịch sinh thái Cồn Vành - Cồn Thủ...

Dự thảo Quy hoạch đề ra mục tiêu khu vực công nghiệp hoàn thành chuyển dịch từ mô hình dựa chủ yếu vào các ngành thâm dụng lao động sang các ngành có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Khu kinh tế ven biển Thái Bình trở thành một trung tâm công nghiệp của vùng với hệ thống khu, cụm công nghiệp được đầu tư hạ tầng hoàn chỉnh và thu hút được một số nhà đầu tư công nghiệp lớn của thế giới.

Quy hoạch cũng lưu ý vấn đề môi trường, khi đề ra chỉ tiêu các khu công nghiệp, đô thị phát triển theo hướng sinh thái, xanh, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu. “Nhắc đến Thái Bình, phải nói đến sứ mệnh lớn là đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực của cả nước, nhưng phát triển nông nghiệp thì không thể giàu có, không thể phát triển nhanh được. Tuy nhiên, lấn biển, giảm diện tích các khu bảo tồn là vấn đề lớn cần làm rõ và phải có luận cứ”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói.

Theo ông Nguyễn Vũ Trung (Bộ Tài nguyên và Môi trường), lấn biển là xu thế tất yếu, tự nhiên của Thái Bình, tốc độ lấn biển hiện nay đạt khoảng 30 m/năm. “Để Thái Bình phát triển nhưng vẫn đảm bảo an ninh lương thực thì là phải lấn biển. Việc lấn biển, hình thành các khu công nghiệp ven biển sẽ giúp kết nối với TP. Hải Phòng thông qua tuyến đường ven biển”, ông Trung nói.

Ông Trung quả quyết, nếu không lấn biển là đi ngược xu thế tự nhiên, xu thế phát triển. Song ông cũng lưu ý cần phân tích rõ khả năng bồi tụ phù sa để có lộ trình lấn biển phù hợp.

Về mặt pháp luật, theo ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, nếu 5 - 10 năm trước, mong muốn lấn biển bị hạn chế bởi không gian chính sách, thì trong thời kỳ quy hoạch lần này, Thái Bình đang có những thuận lợi hơn, khi Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đang được xem xét có nghiên cứu rất kỹ vấn đề này.

ACV được khuyên thuê tư vấn ngoại để hỗ trợ quản lý xây dựng sân bay Long Thành

Bộ GTVT vừa yêu cầu Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam – ACV thực hiện ngay một số biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án thành phần 3 – Cảng hàng không quốc tế Long Thành.

Trong công văn số 9091/BGTVT – CQLXD do ông Lê Anh Tuấn, Thứ trưởng Bộ GTVT ký, vừa được gửi tới ACV, Bộ GTVT đánh giá chủ đầu tư và các nhà thầu đã có rất nhiều cố gắng, tuy nhiên kết quả thực hiện vẫn chưa đáp ứng theo kế hoạch đề ra.

Để giúp theo dõi và kiểm soát Dự án triển khai đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, Bộ GTVT yêu cầu chủ đầu tư - ACV khi báo cáo về dự án phải có nội dung quy mô, phạm vi, tính chất kỹ thuật, giá trị của tất cả các gói thầu tư vấn và xây lắp, thiết bị.

Điều này sẽ giúp các cơ quan theo dõi, đánh giá được tổng thể toàn diện và chỉ đạo/hỗ trợ thực hiện rà soát lại kế hoạch đấu thầu đã duyệt, thẩm định và phê duyệt kế hoạch đấu thầu của các hạng mục công việc còn lại.

Bên cạnh đó, trong báo cáo hàng tháng hoặc trong các cuộc họp, ACV cần kiểm điểm các nội dung đã/chưa thực hiện và các khó khăn vướng mắc khi thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Bộ GTVT, UBND tỉnh Đồng Nai, Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, trong đó cần thể hiện rõ các hạng mục, các gói thầu đã/đang triển khai và kế hoạch, kết quả thực hiện (đặc biệt thực hiện các hạng mục đường găng), so sánh với dự kiến kế hoạch, tiến độ giải ngân…; kế hoạch các hạng mục công việc tiếp theo.

Theo Bộ GTVT, trong thời gian tới, tất cả các gói thầu sẽ được triển khai (bao gồm đường cất hạ cánh, đường lăn, sân đỗ, nhà ga hành khách, đường giao thông trục chính, công trình hạ tầng giao thông nội cảng… Vì vậy, việc phối hợp giữa các nhà thầu, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát để triển khai trên công trường là thách thức rất lớn của chủ đầu tư trong quá trình triển khai.

Bộ GTVT đề nghị ACV cần nghiên cứu thuê tư vấn nước ngoài hỗ trợ quản lý dự án để đảm bảo tiến độ chung của Dự án.

Đối với công tác đấu thầu, đàm phán hợp đồng trước khi ký, để có cơ sở pháp lý chặt chẽ kiểm soát nhà thầu, ACV cần đặc biệt lưu ý đến việc lựa chọn các giám đốc điều hành dự án và các nhân sự chủ chốt đủ về số lượng và đảm bảo năng lực trình độ chuyên môn, kinh nghiệm về tổ chức và điều hành công trường,...; phải huy động trang thiết bị hiện đại và đủ phù hợp tiến độ thực hiện.

Trong hợp đồng phải ràng buộc chặt chẽ các điều khoản thưởng/phạt liên quan đến chất lượng và tiến độ thực hiện công trình, tránh khiếu kiện về sau.

Đối với Gói thầu 5.10, Bộ GTVT đề nghị ACV, với thẩm quyền và trách nhiệm của cấp quyết định đầu tư và chủ đầu tư dự án tiếp nhận, giải quyết kiến nghị của liên danh dự thầu theo quy định của Luật Đấu thầu, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP; không để phát sinh kiến nghị, khiếu nại kéo dài và vượt thẩm quyền giải quyết.

“ACV cần tiếp tục rà soát để kiện toàn các nhân sự, các phòng ban và lãnh đạo Ban quản lý dự án Long Thành để có bộ máy hoàn chỉnh đáp ứng chỉ đạo điều hành Dự án; đồng thời xem xét, đề xuất xây dựng các cơ chế đặc thù (nếu thấy cần thiết) kịp thời kiến nghị cấp có thẩm quyền chấp thuận làm cơ sở tổ chức thực hiện theo quy định đáp ứng yêu cầu chất lượng, tiến độ dự án”, lãnh đạo Bộ GTVT yêu cầu trong Công văn.

Dự án thành phần 3 - các công trình thiết yếu trong Cảng hàng không quốc tế Long Thành do ACV là chủ đầu tư gồm các hạng mục: tường rào; san nền, thoát nước; nhà ga hành khách; các công trình hạ tầng (đường cất hạ cánh; đường lăn; sân đỗ tàu bay; giao thông nội cảng; nhà văn phòng; trạm kiểm tra an ninh hàng không; trung tâm khẩn nguy cứu nạn và cứu hỏa; trung tâm y tế và các công trình tiện ích khác); giao thông kết nối (tuyến số 1: 4,28km, 6 làn xe và tuyến số 2: 3,5 km, 4 làn xe); các công trình phụ trợ (nhà ga hàng hóa số 1; nhà để xe; khu bảo trì cảnh quan; khu bảo trì cảng hàng không - khu công cộng và khu hạn chế; trạm cấp nhiên liệu cho phương tiện phục vụ mặt đất).

Tổng mức đầu tư Dự án thành phần 3 là 99.019,26 tỷ đồng được thực hiện bằng vốn tự có của ACV và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Quảng Bình tìm giải pháp tháo gỡ vướng mắc tại các dự án cao tốc thành phần

Ngày 18/8, UBND tỉnh Quảng Bình đã có buổi làm việc với các BQL Dự án và sở, ngành, địa phương liên quan về công tác giải phóng mặt bằng (GPMB) dự án Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 đoạn qua địa phận tỉnh Quảng Bình.

Dự án Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 đoạn qua địa phận tỉnh Quảng Bình gồm 3 dự án thành phần với chiều dài 126,43 km. Trong đó, đoạn Vũng Áng - Bùng dài khoảng 42,95 km; Bùng - Vạn Ninh dài 49,93 km; Vạn Ninh - Cam Lộ dài 33,55 km. Theo đó, tổng diện tích chiếm dụng của các dự án thành phần khoảng 1.143,38 ha.

Báo cáo của Sở GTVT Quảng Bình cho biết, hiện nay, chiều dài các đoạn tuyến mà các địa phương đã bàn giao cho BQL dự án là 106,86km/126,43km. Để triển khai công tác GPMB cho các dự án, sẽ có 26 dự án tái định cư được thực hiện. Tuy vậy, hiện nay, các địa phương mới chỉ hoàn thành 1 khu tái định cư; 5 khu đang thi công, còn lại 20 khu đang tiếp tục triển khai các thủ tục liên quan. 

Cũng theo báo cáo của cơ quan chức năng, để triển khai dự án, diện tích rừng cần chuyển mục đích sử dụng là 663,26 ha, trong đó 437,25 ha đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận chủ trương chuyển mục đích sử dụng và có 226,01 ha phát sinh mới đã được UBND tỉnh báo cáo Bộ GTVT ngày 27/4/2023.

Ngoài ra, các hạng mục hạ tầng kỹ thuật bị ảnh hưởng do thực hiện các dự án gồm hệ thống đường dây 500kV có 15 vị trí; đường dây 220kV có 15 vị trí; đường dây 110kV có 21 vị trí giao chéo với tuyến cao tốc và nhiều hệ thống đường dây diện trung thế, hạ thế; hệ thống viễn thông; và 5,8 ha đất quốc phòng bị ảnh hưởng.

Về các thủ tục hồ sơ pháp lý, hiện nay tiến độ thẩm định hồ sơ báo cáo đánh giá tác động môi trường; thủ tục chuyển mục đích sử dụng rừng; công tác thẩm định hồ sơ, thiết kế bản vẽ thi công các khu tái định cư... vẫn chưa hoàn thiện.

Tại buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình Trần Thắng yêu cầu các BQL dự án - Bộ GTVT đẩy nhanh việc hoàn thiện hồ sơ chuyển mục đích sử dụng rừng đối với phần diện tích tăng thêm của dự án. Hoàn thiện hồ sơ mốc lộ giới đối với các đoạn tuyến Km640+000 - Km646+00 thuộc Dự án thành phần đoạn Bùng - Vạn Ninh, trình UBND tỉnh phê duyệt.

Phối hợp với UBND các huyện sớm hoàn thành việc đánh giá ảnh hưởng của 92 hộ có công trình nhà ở trong phạm vi hành lang đường bộ; khẩn trương phê duyệt bổ sung các hạng mục công trình như hầm chui qua địa phận (huyện Bố Trạch, Quảng Ninh); hệ thống thoát nước (qua khu dân cư thôn Phú Hòa, xã Phú Thủy thuộc Dự án đoạn Vạn Ninh - Cam Lộ), đường gom (địa phận xã Kim Thủy thuộc Dự án đoạn Vạn Ninh - Cam Lộ) để phục vụ nhu cầu đi lại, sản xuất cho người dân. 

Ngoài ra, các BQL dự án cung cấp số liệu chi tiết về nhu cầu vật liệu cát, đá của các dự án thành phần đoạn đi qua tỉnh Quảng Bình cụ thể, chi tiết nhu cầu sử dụng theo năm, đoạn thi công báo cáo UBND tỉnh Quảng Bình, cũng như chủ động phối hợp với các sở, ngành, địa phương, đơn vị có liên quan kịp thời tham mưu, đề xuất UBND tỉnh phương án xử lý đối với các loại vật liệu còn thiếu; xây dựng phương án thi công đoạn qua đồi, núi trong mùa mưa bão.

Đối với các sở, ngành, địa phương trong tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Bình yêu cầu các đơn vị đẩy nhanh tiến độ thẩm định hồ sơ báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án còn lại. Khẩn trương đẩy nhanh tiến độ thẩm định, phê duyệt, thi công hoàn thành các khu tái định cư, khu nghĩa địa, di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội hoàn thành trước ngày 30/9. Tập trung nhân lực đẩy nhanh việc thực hiện, hoàn thành công tác bồi thường, GPMB phần diện tích còn lại của dự án trước ngày 31/12/2023, cũng như tổ chức đối thoại, giải quyết dứt điểm các kiến nghị, khiếu nại của người dân. 

Đồng thời, các sở, ngành cần tích cực kiểm tra, xử lý nghiêm doanh nghiệp có hành vi găm hàng, nâng giá các loại vật liệu xây dựng thông thường (đá, cát, sỏi, đất san lấp) để thu lợi bất hợp pháp trong quá trình triển khai các dự án.

Hải Dương miễn tiền thuê đất các dự án đầu tư xã hội hóa từ ngày 20/8/2023

Ông Triệu Thế Hùng, Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương vừa ký ban hành Quyết định số 27/2023/QĐ-UBND quy định chế độ ưu đãi về đất đai đối với các dự án đầu tư xã hội hóa, có hiệu lực từ ngày 20/8.

Theo đó, quyết định trên áp dụng đối với nhà đầu tư thực hiện Dự án đầu tư xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường tại khu vực đô thị trên địa bàn được UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư và cho thuê đất tại khu vực đô thị (không áp dụng đối với nhà đầu tư nước ngoài).

Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư xã hội hóa tại khu vực đô thị được thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng và được miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê theo thời hạn hoạt động của dự án được UBND tỉnh chấp thuận. Trường hợp dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép gia hạn thời gian thuê đất thì không được hưởng ưu đãi về đất đai theo quy định này đối với thời gian thuê đất được gia hạn.

Trường hợp ngân sách tỉnh không có khả năng cân đối để thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng và bàn giao mặt bằng sạch cho nhà đầu tư thì nhà đầu tư ứng trước kinh phí để thực hiện chi trả tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng; việc xử lý tiền bồi thường, giải phóng mặt bằng được thực hiện theo quy định tại điểm b, điểm c khoản 5, điều 6 Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 điều 1 Nghị định số 59/2014/NĐ-CP ngày 16/6/2014 của Chính phủ).

Để được hưởng chế độ ưu đãi về đất đai, Dự án đầu tư xã hội hóa phải thuộc danh mục loại hình và đáp ứng các tiêu chí, quy mô, tiêu chuẩn của các cơ sở thực hiện xã hội hóa do Thủ tướng Chính phủ ban hành; phù hợp với quy hoạch tỉnh, quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch xây dựng và quy hoạch sử dụng đất của địa phương được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Dự án triển khai thực hiện và đi vào hoạt động theo đúng tiến độ, mục tiêu, quy mô được UBND tỉnh chấp thuận và các quy định của pháp luật.

UBND tỉnh Hải Dương giao Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương chủ trì tham mưu UBND tỉnh phê duyệt, công bố danh mục các dự án đầu tư xã hội hóa phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh ở từng thời kỳ để thu hút, kêu gọi đầu tư. Bên cạnh đó, Sở chủ trì cùng với các sở, ngành và địa phương liên quan khác tổ chức thẩm định, tổng hợp trình UBND tỉnh quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư đối với các dự án đầu tư xã hội hóa ngoài khu công nghiệp theo quy định của pháp luật. Yêu cầu sở Kế hoạch và Đầu tư theo dõi tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư xã hội hóa; tổng hợp, báo cáo, đề xuất UBND tỉnh giải quyết những vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định này.

Đối với các dự án đầu tư xã hội hóa tại khu vực đô thị trên địa bàn đã được UBND tỉnh Hải Dương chấp thuận chủ trương đầu tư trước thời điểm quyết định này có hiệu lực được tiếp tục áp dụng ưu đãi theo quy định tại văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án. Trường hợp mức ưu đãi về đất đai đã được chấp thuận thấp hơn quyết định này thì nhà đầu tư được hưởng ưu đãi theo quyết định này cho thời gian hưởng ưu đãi còn lại của dự án.

Trước đó, tại kỳ họp lần thứ 16, khóa XVII, HĐND tỉnh Hải Dương cũng đã có Nghị quyết nhất trí với chủ trương ban hành Quyết định về chính sách ưu đãi về đất đai đối với các dự án đầu tư xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao và môi trường tại khu vực đô thị trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

Hiện cơ sở vật chất, trang thiết bị của ngành y tế, giáo dục tỉnh Hải Dương vừa thiếu, vừa xuống cấp trầm trọng ở một số nơi. Tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế chưa đáp ứng tốt nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân. Việc thực hiện Chương trình Giáo dục phổ thông năm 2018 còn một số khó khăn, cơ cấu giáo viên chưa hợp lý, một số môn học thiếu giáo viên. Công tác thu hút đầu tư xã hội hóa lĩnh vực giáo dục, y tế chưa đạt kết quả. 

Nhiều nhà đầu tư đề xuất dự án thủy điện vào quy hoạch tỉnh Bình Định

UBND tỉnh Bình Định đồng ý cho Tổng công ty Cơ điện Xây dựng - CTCP (AGRIMECO) tục khảo sát chi tiết giai đoạn 2 của Dự án Khai thác tiềm năng thuỷ điện từ các hồ chứa thuỷ lợi tỉnh Bình Định.

Theo đó, UBND tỉnh Bình Định cho phép AGRIMECO khảo sát chi tiết các công trình Thuỷ điện Sông Vố (huyện An Lão); Cẩn Hậu (thị xã Hoài Nhơn); Vạn Hội (huyện Hoài Ân), Định Bình (huyện Vĩnh Thạnh); Hội Sơn (huyện Phù Cát); Thuận Ninh (huyện Tây Sơn) thuộc Dự án Khai thác tiềm năng thuỷ điện từ các hồ chứa thuỷ lợi tỉnh Bình Định.

Vào ngày 23/6/2023, AGRIMECO cũng có văn bản gửi UBND tỉnh Bình Định về đề nghị đưa vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch điện VIII các dự án thủy điện từ các hồ đập thủy lợi.

Liên quan đến thủy điện, trong tháng 8/2023, nhiều chủ đầu tư đã có văn bản gửi UBND tỉnh Bình Định đề nghị nâng công suất các dự án.

Cụ thể, Công ty cổ phần Thủy điện An Quang đề nghị điều chỉnh công suất Nhà máy thủy điện Nước Xáng từ 12,5 MW lên 14,4 MW; Công ty cổ phần Đầu tư thủy điện Hồ Núi Một  đề nghị điều chỉnh công suất Nhà máy thủy điện Hồ Núi Một từ 1 MW lên 1,32 MW.

Công ty cổ phần Thủy điện Nước Lương  đề nghị điều chỉnh công suất Nhà máy thủy điện Nước Lương từ 22 MW lên 27 MW; Công ty TNHH Thủy điện Phú Phong  đề nghị điều chỉnh công suất Nhà máy thủy điện hạ lưu đập dâng Phú Phong từ 2,9 MW lên 3,625 MW; Công ty cổ phần Đầu tư và Xây dựng thủy điện Đồng Mít đề nghị điều chỉnh công suất Nhà máy thủy điện Đồng Mít từ 7 MW lên 9 MW. 3 doanh nghiệp này đề nghị điều chỉnh công suất nhà máy trên vào Quy hoạch tỉnh Bình Định.

UBND tỉnh Bình Định cho biết, trong giai đoạn tới, địa phương sẽ ưu tiên phát triển điện gió ngoài khơi (Dự án của Tập đoàn PNE), điện rác và một số dự án thủy điện tận dụng các hồ thủy lợi hiện có trên địa bàn tỉnh.

Thời gian qua, nhiều nhà đầu tư có tiềm năng về tài chính và kinh nghiệm đã đăng ký nghiên cứu, khảo sát để triển khai các dự án trên địa bàn tỉnh Bình Định. Riêng thủy điện, tính đến tháng 7/2023, tỉnh Bình Định có 12 dự án đăng ký triển khai với tổng công suất là 63,71 MW.

Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư