Đặt mua báo in| Mới - Đọc báo in phiên bản số| Thứ Ba, Ngày 21 tháng 05 năm 2024,
Rà soát các trạm dừng nghỉ; Phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia
Hạnh Nguyên (tổng hợp ) - 04/11/2023 10:13
 
Rà soát các trạm dừng nghỉ đang xây dựng, khai thác trên cao tốc Bắc – Nam; Phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia… Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư đáng chú ý trong tuần qua.

Bình Định gia hạn thời gian hoàn thành hai dự án du lịch tại tuyến Quy Nhơn - Sông Cầu

Dự án Khu nghỉ dưỡng La Costa tại tuyến Quy Nhơn - Sông Cầu, TP. Quy Nhơn do Công ty cổ phần Đầu tư Thanh Linh Quy Nhơn làm chủ đầu tư vừa được UBND tỉnh Bình Định điều chỉnh chủ trương đầu tư.

Ảnh phối cảnh Dự án Khu nghỉ dưỡng La Costa.
Ảnh phối cảnh Dự án Khu nghỉ dưỡng La Costa.

Theo đó, Dự án Khu nghỉ dưỡng La Costa (Khu A, phía Đông đường Quốc lộ 1 D) được kéo dài thời gian khởi công xây dựng công trình và đưa dự án đi vào hoạt động từ quý I/2020 đến quý III/2023 sang quý I/2020 đến quý III/2024 (kéo dài thêm 12 tháng).

UBND tỉnh Bình Định yêu cầu Công ty cổ phần Đầu tư Thanh Linh Quy Nhơn phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án như đã cam kết trong hồ sơ đề nghị điều chỉnh và văn bản cam kết ngày 3/10/2023, sớm hoàn thành Dự án và đi vào hoạt động.

Được biết, đây là lần thứ 2 dự án được điều chỉnh thời gian hoàn thành. Trước đó vào ngày 24/1/2022, Dự án đã được UBND tỉnh Bình Định điều chỉnh chủ trương đầu tư với nội dung điều chỉnh thời gian khởi công xây dựng công trình và hoàn thành đưa vào hoạt động Khu A từ quý IV/2018 đến quý IV/2019 sang thành quý I/2020 đến quý III/2023.

Ngoài ra, so với quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư vào ngày 15/3/2017, Dự án cũng được điều chỉnh giảm diện tích đất từ 4 ha xuống còn 1,73 ha.

Tuy nhiên đến ngày 29/4/2022, do vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, Dự án được UBND tỉnh Bình Định điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 với tổng quy mô diện tích quy hoạch còn hơn 1,45 ha.

Một dự án du lịch khác tại tuyến Quy Nhơn – Sông Cầu, TP. Quy Nhơn cũng vừa được UBND tỉnh Bình Định điều chỉnh chủ trương đầu tư là Dự án Khu Ami Resort & Spa do Công ty TNHH Đầu tư Phát triển Kỹ thuật Đông Nam làm chủ đầu tư.

So với Quyết định số 2671, ngày 3/8/2018, Dự án Khu Ami Resort & Spa được điều chỉnh tăng diện tích đất từ hơn 1,1 ha lên thành hơn 1,2 ha; điều chỉnh thời gian khởi công xây dựng công trình và hoàn thành đi vào hoạt động từ quý I/2019 đến quý IV/2020 thành quý I/2019 đến quý I/2024.

Với phần diện tích tăng thêm, Công ty TNHH Đầu tư Phát triển Kỹ thuật Đông Nam được yêu cầu lập hồ sơ xin thuê đất bổ sung, thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư khác, đẩy nhanh tiến độ để sớm hoàn thành dự án và xây dựng dự án đúng quy hoạch được duyệt.

Dự án Khu Ami Resort & Spa được UBND tỉnh Bình Định chấp thuận chủ trương lần đầu tại Quyết định số 1600, ngày 9/5/2017; điều chỉnh ngày 3/8/2018.

Sau khi được điều chỉnh, đối với 2 dự án trên, UBND tỉnh Bình Định nhấn mạnh “trường hợp dự án tiếp tục chậm tiến độ, giao Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra và báo cáo UBND tỉnh xem xét thu hồi chủ trương đầu tư theo quy định”.

Petrovietnam ký kết triển khai chuỗi dự án khí điện Lô B - Ô Môn

Ngày 30/10 tại Hà Nội, trước sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) cùng các đối tác đã ký kết các hợp đồng liên quan và triển khai chuỗi Dự án khí điện Lô B - Ô Môn, đánh dấu bước tiến quan trọng của chuỗi dự án trọng điểm này.

Lễ ký biên bản thống nhất nội dung hợp đồng bán khí Ô Môn I giữa Petrovietnam và Tổng công ty Phát điện 2 (GENCO2)

Theo Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng, chuỗi dự án khí điện Lô B - Ô Môn là chuỗi dự án khí điện nội địa bao gồm: Dự án phát triển mỏ Lô B (thượng nguồn), Dự án đường ống Lô B – Ô Môn (trung nguồn) và 4 nhà máy điện khí Ô Môn I, II, III, IV ở hạ nguồn, với quy mô tổng đầu tư gần 12 tỷ USD.

Sản lượng khai thác khí dự kiến khoảng 5,06 tỷ m3 khí/năm, cung cấp cho tổ hợp 04 nhà máy điện tại Trung tâm Điện lực Ô Môn với tổng công suất lắp đặt dự kiến lên đến 3.800 MW.

Khi được triển khai thành công, dự án này không chỉ đem lại nguồn thu rất lớn cho Nhà nước với trên 30 tỷ USD, các Bên đầu tư là hơn 11 tỷ USD mà còn góp phần củng cố an ninh, quốc phòng, khẳng định chủ quyền biển đảo. Đồng thời, các dự án thành phần thuộc chuỗi dự án trong quá trình xây dựng sẽ tạo thêm cơ sở hạ tầng, tạo hàng nghìn việc làm, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nhiều địa phương.

Trong bối cảnh nền kinh tế ngày càng tăng trưởng mạnh, các nguồn điện truyền thống bị hạn chế, thì các dự án nhiệt điện khí là yếu tố quan trọng để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.

Cùng với đó, việc triển khai chuỗi dự án khí điện Lô B - Ô Môn sẽ là một bước tiến quan trọng của Petrovietnam trong việc góp phần thực hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam tại COP26 với mục tiêu giảm phát thải Carbon để ứng phó biến đổi khí hậu, Quy hoạch điện VIII được xây dựng hướng tới một hệ thống năng lượng “xanh hơn”, “sạch hơn”, phù hợp với xu thế toàn cầu về chuyển dịch năng lượng đang diễn ra mạnh mẽ.

Trong thời gian qua, vì nhiều lý do khách quan trong các thủ tục đầu tư các dự án nhà máy điện hạ nguồn, cũng như còn tồn tại, vướng mắc trong cơ chế chính sách về tiêu thụ khí điện, vận hành thị trường điện để các hộ tiêu thụ có thể ký kết hợp đồng thương mại dẫn đến việc nhiều mốc tiến độ quan trọng của chuỗi bị chậm so với kế hoạch ban đầu.

Tuy nhiên với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cùng sự quyết tâm của Petrovietnam và toàn bộ các Bên trong Chuỗi dự án, nhiều vấn đề vướng mắc đã từng bước được giải quyết.

Tháng 6/2023, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định để Petrovietnam chính thức là chủ đầu tư tiếp tục triển khai hai dự án này. Việc này đã đánh dấu mốc quan trọng khi Petrovietnam tham gia đầu tư vào toàn Chuỗi dự án từ thượng nguồn tới hạ nguồn.

“Với sự quyết tâm, lãnh đạo và chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Chính phủ và trực tiếp là Thủ tướng Chính phủ, cũng như sự ủng hộ, hỗ trợ của các Bộ, ngành Trung ương và địa phương, cùng sự họp tác, chia sẻ của các bên đối tác, với truyền thống không ngại khó, không ngại khổ của người Dầu khí, Chuỗi dự án sẽ lần lượt đạt được những mốc quan trọng, vững chắc tiến về đích”, Tổng giám đốc Petrovietnam Lê Mạnh Hùng khẳng định,

Phát biểu tại buổi lễ, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, đây là sự kiện quan trọng, ý nghĩa của ngành Dầu khí được sự quan tâm của các cấp, các ngành, địa phương và người dân nơi có dự án đi qua. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng nhiệt liệt chúc mừng Petrovietnam cùng tất cả các bên đối tác tham gia đầu tư trong buổi lễ ký kết và triển khai Chuỗi Dự án khí điện Lô B - Ô Môn.

Theo chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Petrovietnam đã nỗ lực có thêm dự án quan trọng được triển khai hợp tác giữa ba nước Việt Nam, Nhật Bản và Thái Lan trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, khai thác hiệu quả, chống tiêu cực, lãng phí ở dự án này. Chủ trương của Đảng, Nhà nước đầu tư Trung tâm Nhiệt điện Ô Môn là hoàn toàn đúng đắn, góp phần giải quyết vấn đề năng lượng, phát triển nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá Đồng bằng sông Cửu Long. Trước mắt, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm nhưng trước hết cần phải rút kinh nghiệm để lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tốt hơn không để kéo dài dự án.

Trong chiến lược phát triển năng lượng đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2050, Đảng và Nhà nước rất chú trọng tới việc phát triển bền vững ngành Dầu khí. Chính phủ Việt Nam đã, đang và sẽ tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ và khuyến khích các hoạt động của Petrovietnam và các các nhà đầu tư trong và ngoài nước, các tập đoàn, công ty trong lĩnh vực dịch vụ trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích chính đáng của các bên; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư. Đây là quan điểm thống nhất của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành.

Đảng và Nhà nước mong muốn Petrovietnam, các nhà đầu tư trong chuỗi dự án cùng các địa phương hợp tác, hỗ trợ nhau, đẩy mạnh liên kết vùng để thúc đẩy khu vực kinh tế Tây Nam Bộ phát triển.

Với thực tế để chuỗi dự án thành công chặng đường phía trước còn dài và nhiều khó khăn với khối lượng công việc còn rất lớn, Thủ tướng cũng mong muốn các bộ, ngành, cơ quan thẩm quyền liên quan luôn quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết dứt điểm các khó khăn vướng mắc tồn tại để hỗ trợ chuỗi dự án nói chung và Petrovietnam, EVN cùng các nhà đầu tư hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thủ tướng tin chắc tiến độ của các giai đoạn tới sẽ kịp thời, hiệu quả hơn bởi đây là dự án trọng điểm quốc gia mang nhiều ý nghĩa kinh tế, an ninh quốc phòng, dân sinh. Do đó đã cố gắng rồi thì phải cố gắng hơn nữa, quyết tâm rồi phải quyết tâm hơn nữa. Mọi vướng mắc đều có thể giải quyết trên tinh thần vướng mắc ở đâu giải quyết ở đó.

Thủ tướng hy vọng và tin tưởng rằng với truyền thống đoàn kết, chủ động, sáng tạo, quyết tâm, không ngại khó khăn, gian khổ của Petrovietnam, cùng sự tin tưởng và hợp tác lâu dài với các bên đối tác tin cậy là Nhật Bản và Thái Lan, chuỗi dự án sẽ được triển khai theo kế hoạch, và phải vượt kế hoạch, đạt được những thành công như kỳ vọng để thúc đẩy sự phát triển của ngành Dầu khí Việt Nam, cùng chung sức tiếp tục đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và phát triển toàn diện nhanh và bền vững của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, góp phần củng cố, tăng cường quan hệ hợp tác với các nước Nhật Bản, Thái Lan.

Tại buổi lễ, Petrovietnam và các đối tác đã tiến hành ký kết các văn bản quan trọng: Thỏa thuận khung Lô B; Biên bản thống nhất nội dung Hợp đồng Bán khí Ô Môn I; Trao thầu Hợp đồng EPC#1. Đây là sự kiện tạo tiền đề để Petrovietnam và các đối tác tiếp tục triển khai các dự án thành phần trong thời gian tới.

ĐBSCL thu hút 100.000 tỷ đồng vào nông nghiệp và nông thôn

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam và lãnh đạo các tỉnh ĐBSCL tham dự cùng đông đảo các doanh nghiệp tiêu biểu về đầu tư nông nghiệp vùng ĐBSCL.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ĐBSCL là vùng kinh tế nông nghiệp quan trọng, đóng góp trên 33% GDP nông nghiệp cả nước và 30% GDP của vùng. ĐBSCL đứng đầu cả nước về sản lượng lúa gạo, thủy sản và trái cây. Vùng này đóng góp 56% sản lượng lúa gạo (24,5 triệu tấn), 98% sản lượng cá tra (1,41 triệu tấn) và 60% các loại trái cây cả nước (4,3 triệu tấn), 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% lượng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Tiềm năng là vậy, nhưng theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, những năm qua thu hút đầu tư vào lĩnh vực của ĐBSCL vẫn còn trở ngại và thách thức lớn khi cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi và hạ tầng cơ sở còn thiếu và chưa đồng bộ, trình độ sản xuất của nông dân còn thấp, năng suất lao động thấp, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư chưa đồng bộ, chưa hấp dẫn nhà đầu tư, trong khi đa phần các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn của vùng còn nhỏ lẻ, tiềm lực còn yếu, chưa hấp dẫn nhà đầu tư chiến lược, có tiềm năng lớn trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực này.

Do vậy, để khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp ĐBSCL, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn ĐBSCL như: chính sách ưu đãi, hỗ trợ về đất đai, tin dụng, chính sách thuế, khoa học và công nghệ…

Chính nhờ những chính sách này, thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn tại ĐBSCL đã có những chuyển biến tích cực. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng vốn đầu tư vào nông nghiệp tại ĐBSCL trong năm 2023 đạt khoảng 100.000 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2022.

Một số Dự án đầu tư lớn vào lĩnh vực nông nghiệp, phát triển nông thôn tại ĐBSCL trong năm 2023 bao gồm: Dự án xây dựng nhà máy chế biến gạo 100.000 tấn/năm tại Long An, có tổng vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, được thực hiện bởi Công ty cổ phần Thực phẩm Đồng An; Dự án trồng và chế biến trái cây công nghệ cao tại Tiền Giang, có tổng vốn đầu tư 500 tỷ đồng, được thực hiện bởi Công ty cổ phần Nông nghiệp Tiên Phong; Dự án nuôi thủy sản công nghệ cao tại tỉnh Cà Mau, có tổng vốn đầu tư 200 tỷ đồng, được thực hiện bởi Công ty cổ phần Thủy sản Cà Mau....

Phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Thứ trưởng Trần Thanh Nam gợi mở một số vấn đề để vùng ĐBSCL nghiên cứu thực hiện, như khai thác tốt các sản phẩm nông nghiệp từ cây ăn trái, lúa gạo, thủy sản; phát triển Đề án phát triển bền vững 1 triệu hecta chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL, cũng chính là phát triển nền nông nghiệp xanh, sinh thái bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu.

Theo ông Nam, ĐBSCL cần tập trung các nguồn lực đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, lĩnh vực logistics, nhất là ở các vùng nguyên liệu tập trung lớn, trong đó có kho mát để phân loại, bảo quản, sơ chế giúp nâng cao chất lượng và ổn định giá thành, tăng sức cạnh tranh cho nông sản xuất khẩu nhằm nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng.

Nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý và các doanh nghiệp chia sẻ và đồng tình cho rằng, để thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại ĐBSCL, cần tập trung vào hoàn thiện cơ sở hạ tầng. Đây là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh.

Các cấp, các ngành, các địa phương cần tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, thông tin liên lạc, đặc biệt là ở các khu, cụm công nghiệp nông nghiệp, thủy sản. Đồng thời, nâng cao trình độ sản xuất của nông dân, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Các địa phương cần tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước... nhằm tạo nguồn lực và sức bật mới cho phát triển nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL.

Ưu đãi đầu tư với Dự án nạo vét luồng hàng hải Định An - Cần Thơ

Vừa qua, Bộ Giao thông vận tải đã chủ trì cuộc họp với Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lãnh đạo UBND TP. Cần Thơ, tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng và các Vụ, Cục trực thuộc Bộ về Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phầm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ.

Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ bảo đảm cho tàu có trọng tải từ 10.000 tấn trở lên ra vào các cảng của thành phố (Ảnh: Cảng Tân Cảng Cái Cui)

Qua nội dung thống nhất tại cuộc họp, dự kiến trong tháng 11/2023, Bộ Giao thông vận tải tham mưu Chính phủ sửa đổi Nghị định số 159/2018/NĐ-CP ngày 28/11/2018 của Chính phủ quy định về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển, vùng nước đường thủy nội địa theo hướng sẽ phân cấp, phân quyền cho địa phương thực hiện nạo vét trong vùng nước cảng biển.

Trong thời gian chờ sửa đổi Nghị định số 159/2018/NĐ-CP, Bộ Giao thông vận tải sẽ lấy ý kiến các Bộ liên quan để tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết giao UBND TP. Cần Thơ là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Tước đó, tại Văn bản số 205/TB-VPCP, ngày 3/6/2023 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Cần Thơ (ngày 14/5/2023), đối với nội dung kiến nghị của TP. Cần Thơ về Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ, Thủ tướng cho rằng, đây là dự án quan trọng, có ý nghĩa lớn với phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được Quốc hội cho phép áp dụng một số cơ chế đặc thù tại Nghị quyết số 45/2022/QH15 ngày 11/1/2022, do đó cần khẩn trương triển khai thực hiện.

Thủ tướng giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính rà soát cơ sở pháp lý về việc giao UBND TP. Cần Thơ là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thực hiện Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong tháng 6 năm 2023.

Đồng thời, giao Bộ Tài nguyên và Môi trường hỗ trợ, hướng dẫn UBND TP. Cần Thơ trong việc đánh giá tác động môi trường của Dự án theo quy định của pháp luật.

Theo Nghị quyết số 45/2022/QH15 ngày 11/1/2022 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Cần Thơ, tại Điều 7 có quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Ðịnh An - Cần Thơ.

Theo đó, các dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ theo phương thức xã hội hóa, đáp ứng các điều kiện: bảo đảm chuẩn tắc luồng hàng hải cho tàu có trọng tải từ 10.000 tấn trở lên ra vào các cảng của Thành phố và có quy mô vốn từ 500 tỷ đồng trở lên được áp dụng hình thức ưu đãi đầu tư sau:

Thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong thời gian 15 năm, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp 04 năm và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 09 năm tiếp theo.

Thời gian bắt đầu hưởng ưu đãi, điều kiện áp dụng ưu đãi thuế, thu nhập được hưởng ưu đãi quy định tại điểm này thực hiện theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp;

Miễn tiền thuê đất trong 15 năm và giảm 50% tiền thuê đất cho thời gian còn lại đối với diện tích đất được thuê để đổ chất nạo vét của dự án.

Việc thực hiện các dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ phải tuân thủ quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Về phía TP. Cần Thơ, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 878/QĐ-UBND ngày 2/3/2022 lập Tổ công tác đối với chính sách về nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luông hàng hải Định An - Cần Thơ theo Nghị Quyết số 45/2022/QH15 của Quốc hội.

Đồng thời, ban hành Công văn số 548/UBND-KT ngày 15/2/2022 gửi Bộ Giao thông vận tải và Cục Hàng hải về việc phối hợp triển khai chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ; đã phối hợp tổ chức thực hiện các hội nghị trao đổi, tham vấn xin ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia và đơn vị tư vấn về căn cứ khoa học, cơ sở thực tiễn, hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường để quyết định phương án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An - Cần Thơ.

Bình Định đề xuất đầu tư hoàn chỉnh 5 tuyến đường nối cao tốc với Quốc lộ 1

Trong công văn gửi Bộ Giao thông - Vận tải và Cục Đường bộ Việt Nam, UBND tỉnh Bình Định vừa kiến nghị Bộ này xem xét thực hiện đầu tư xây dựng nâng cấp, mở rộng 5 đoạn tuyến kết nối từ các nút giao liên thông khác mức với đường cao tốc Bắc - Nam, phía Đông đến Quốc lộ 1.

Cụ thể, UBND tỉnh Bình Định đề xuất nâng cấp, mở rộng 4 tuyến đường giúp kết nối với đường cao tốc Bắc - Nam, đoạn Hoài Nhơn -Quy Nhơn gồm tuyến đường ĐT.629 thuộc địa bàn xã Ân Mỹ, huyện Hoài Ân (đoạn từ nút giao tại Km1+600 cao tốc) với chiều dài khoảng 3 km, tổng mức đầu tư khoảng 60 tỷ đồng; tuyến đường ĐT.634 thuộc xã Cát Hiệp, huyện Phù Cát (đoạn từ nút giao tại khoảng Km 45+500 cao tốc) với chiều dài khoảng 5 km, tổng mức đầu tư 90 tỷ đồng.

Hai tuyến đường còn lại là đoạn tuyến (từ nút giao tại Km26+400 cao tốc, thuộc xã Mỹ Trinh, huyện Phù Mỹ) đến Tuyến đường kết nối từ phía tây tỉnh (ĐT.638) đến đường ven biển (ĐT.639) trên địa bàn huyện Phù Mỹ - hiện đang triển khai đầu tư xây dựng với chiều dài khoảng 2 km, tổng mức đầu tư 30 tỷ đồng; tuyến đường Quốc lộ 19B (đoạn từ nút giao tại khoảng Km 56+000, trên địa bàn xã Tây An, huyện Tây Sơn) nhằm kết nối với Sân bay Phù Cát với chiều dài khoảng 5 km, tổng mức đầu tư khoảng 80 tỷ đồng.

UBND tỉnh Bình Định cũng đề xuất nâng cấp mở rộng tuyến đường Quốc lộ 19C, đoạn từ nút giao tại khoảng Km 10+600 của đường cao tốc Bắc - Nam, đoạn Quy Nhơn - Chí Thạnh (nằm trên địa bàn xã Phước Thành, huyện Tuy Phước) với chiều dài khoảng 6 km; tổng mức đầu tư 90 tỷ đồng.

UBND tỉnh Bình Định cho biết, Quốc lộ 19B có quy mô hiện trạng là cấp V, IV đồng bằng; Quốc lộ 19C có quy mô hiện trạng là cấp V, VI đồng bằng; 3 tuyến đường còn lại có quy mô hiện trạng là cấp III đồng bằng. Các tuyến đường này đều được quy hoạch cấp III đồng bằng, riêng tuyến đường Quốc lộ 19B kết nối cao tốc Bắc - Nam liên thông với sân bay Phù Cát và Quốc lộ 1 còn được quy hoạch đô thị.

Thời gian khởi công và hoàn thành các tuyến đường này được đề xuất trong giai đoạn 2024 – 2026 bằng nguồn ngân sách Trung ương.

Theo UBND tỉnh Bình Định, việc đầu tư hoàn chỉnh 5 tuyến đường kết nối trên nhằm phát huy hiệu quả khai thác tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025 và phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Đà Nẵng: Dự án cảng Liên Chiểu đã giải ngân hơn 1.000 tỷ đồng 

Thông tin từ Ban Quản lý Dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ưu tiên Thành phố Đà Nẵng cho biết, Dự án xây dựng bến cảng Liên Chiểu phần cơ sở hạ tầng dùng chung hiện đã giải ngân được hơn 1.036 tỷ đồng, đạt hơn 30%. Trong đó, phần khối lượng thi công công trình đã đạt khoảng 370 tỷ đồng/2.630 tỷ đồng tổng vốn đầu tư của Dự án, tương ứng với 14,07% khối lượng.

Dự án cảng Liên Chiểu đang đảm bảo tiến độ thi công.
Dự án cảng Liên Chiểu đang đảm bảo tiến độ thi công.

Ban Quản lý dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ưu tiên Thành phố Đà Nẵng cũng cho biết, khó khăn, vướng mắc lớn nhất hiện nay của Dự án là nguồn cung đá xây dựng của thành phố thiếu hụt. Bởi nhu cầu dự án cần khoảng 1,98 triệu m3 đá các loại, gồm 0,55 triệu m3 cho phần giao thông và 1,43 triệu m3 cho phần đê kè chắn sóng. Riêng trong năm 2023, Dự án cần sử dụng 1 triệu m3 đá.

Tuy nhiên, hiện các mỏ khai thác đá hiện có giấy phép khai thác còn hiệu lực trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng chỉ cung cấp được tối đa khoảng 780.000 m3/năm, không đủ sản lượng để cung cấp cho dự án.

Theo Ban Quản lý dự án đầu tư cơ sở hạ tầng ưu tiên Thành phố Đà Nẵng, bên cạnh việc đề xuất Thành phố cho phép các mỏ còn trữ lượng tăng công suất khai thác thì đơn vị đã chủ động tìm nguồn cung cấp từ các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Quảng Ngãi và Thừa Thiên - Huế.

Vì vậy, tiến độ thi công Dự án cảng Liên Chiểu đảm bảo tiến độ.

Dự án Đầu tư xây dựng Bến cảng Liên Chiểu - phần cơ sở hạ tầng dùng chung có tổng mức đầu tư 3.426,3 tỷ đồng.

Dự án cảng Liên Chiểu - phần cơ sở hạ tầng dùng chung do Liên danh nhà thầu Công ty cổ phần Tư vấn và Xây dựng Phú Xuân - Tổng công ty Xây dựng Lũng Lô - Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn - Công ty TNHH Đầu tư xây dựng DACINCO - Công ty cổ phần Xây dựng Xuân Quang thực hiện.

Cảng Liên Chiểu sẽ có khu bến container 114 ha, khu bến tổng hợp 58 ha tiếp nhận tàu container, tổng hợp có trọng tải 100.000 DWT (sức chở từ 6.000 - 8.000 Teus) lên đến 200.000 DWT (sức chở 18.000 Teus). Ngoài ra, còn có khu bến thủy nội địa 38 ha tiếp nhận tàu trọng tải đến 5.000 DWT để tiếp chuyển hàng hóa bằng đường thủy nội địa và ven biển, giảm ách tắc hàng hóa vận chuyển bằng đường bộ.

Nghệ An tiếp tục đôn đốc tiến độ giải ngân đầu tư công năm 2023

Mới đây, Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Bùi Thanh An vừa ký Công văn số 9169/UBND-KT đề nghị các Sở, ngành, địa phương, các chủ đầu tư trên địa bàn tỉnh đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công năm 2023, tuyệt đối không để Thủ tướng Chính phủ phê bình, kiểm điểm.

Cụ thể, Công văn nêu rõ: Thực hiện Công văn số 11086/BCT-ĐT ngày 11/10/2023 của Bộ tài chính về việc công khai danh mục Dự án sử dụng vốn ngân sách Trung ương (vốn trong nước) có tỷ lệ giải ngân dưới 10% kế hoạch năm 2023, theo đó, Bộ Tài chính thông báo danh sách các dự án đến ngày 21/9/2023 giải ngân dưới 10% và yêu cầu UBND các tỉnh, thành phố chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ giải ngân.

Đặc biệt, trường hợp sau tháng 10 năm 2023, đối với các dự án không có khả năng giải ngân hay không thay đổi về số liệu giải ngân, Bộ Tài chính báo cáo Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo địa phương kiểm điểm, làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của các chủ thể khi dự án không giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện kế hoạch đầu tư công chung của quốc gia.

Vì vậy, để đảm bảo đẩy nhanh tiến độ giải ngân các dự án, tuyệt đối không để Thủ tướng Chính phủ phê bình, kiểm điểm, UBND tỉnh yêu cầu đối với đơn vị là chủ đầu tư các dự án có tỷ lệ giải ngân kế hoạch đầu tư công năm 2023 vốn ngân sách Trung ương (vốn trong nước) dưới 10%KH  khẩn trương hoàn thiện hồ sơ thủ tục, áp dụng các biện pháp cần thiết (huy động nhân lực, tăng ca, tập trung nhiều mũi thi công...) để đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nghiệm thu, thanh toán vốn ngay khi có khối lượng.

Trường hợp tạm ứng, phải bảo đảm việc tạm ứng, mức vốn tạm ứng và thu hồi vốn tạm ứng theo đúng quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công.

Trước ngày 31/10/2023, phải bảo đảm có sự thay đổi về tỷ lệ giải ngân (tối thiểu đạt 10%) so với thời điểm Bộ Tài chính thông báo (ngày 21/9/2023). Trường hợp không có khả năng giải ngân hay không thay đổi về số liệu giải ngân để Thủ tướng Chính phủ phê bình, kiểm điểm, người đứng đầu các đơn vị phải chịu hoàn toàn trách nhiệm.

UBND tỉnh đề nghị các  Sở, ngành: Xây dựng, Giao thông Vận tải, NN&PTNT, Tài chính, Văn phòng UBND tỉnh ưu tiên tối đa việc giải quyết hồ sơ thủ tục cho các dự án bảo đảm kịp thời và đúng quy định…

Cùng với đó, Công văn cũng điểm tên 10 dự án giải ngân dưới 10% trên địa bàn tỉnh nguồn ngân sách Trung ương (vốn trong nước) gồm: Trường Trung cấp nghề kinh tế - Kỹ thuật Bắc Nghệ An (giai đoạn 2); Đầu tư cơ sở vật chất Trường Đại học Y khoa Vinh cơ sở 2; Dự án đầu tư mua sắm trang thiết bị cho Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) tỉnh Nghệ An; Dự án đầu tư mua sắm trang thiết bị cho 28 Bệnh viện đa khoa, Trung tâm y tếtuyến huyện, tỉnh Nghệ An; Cải tạo, nâng cấp các hồ chứa nước, kênh tưới và hạ tầng sản xuất cánh đồng lớn, liên kết sản xuất lúa giống huyện Yên Thành; Đường vào Khu công nghiệp Hưng Yên Nam, huyện Hưng Nguyên; Cải tạo, nâng cấp đường giao thông nối từ QL1A đến QL7A (tuyến đi qua các xã Diễn An, Diễn Lộc, Diễn Phú, Diễn Lợi và Minh Châu, huyện Diễn Châu); Xây dựng Trung tâm bảo trợ xã hội tổng hợp tỉnh Nghệ An cơ sở 2; Đường giao thông phục vụ Quốc phòng - An ninh biên giới đoạn nối từ đường 9. Mường Xén - Ta Đo - Khe Kiền lên đường tuần tra biên giới, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An và Dự án đầu tư xây mới, nâng cấp, cải tạo 08 Bệnh viện Đa khoa, Trung tâm Y tế tuyến huyện, tỉnh Nghệ An.

Tập đoàn Coherent (Hoa Kỳ) muốn đầu tư 3 dự án công nghệ cao tại Đồng Nai 

Ngày 31/10, tại Đồng Nai, Tập đoàn Coherent (Hoa Kỳ) làm việc với Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Nguyễn Hồng Lĩnh và các sở, ngành để đăng ký Dự án đầu tư vào Đồng Nai.

Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Nguyễn Hồng Lĩnh (bên phải) tặng quà lưu niệm cho đại diện Tập đoàn Coherent.

Tại buổi làm việc, ông Steve Rummel, Phó chủ tịch cấp cao Tập đoàn Coherent cho biết, Coherent chuyên sản xuất, cung ứng vật liệu, linh kiện, hệ thống bán thành phẩm điện tử và thiết bị đo đạc cho nhiều thương hiệu lớn trên thế giới.

Sau khi tìm hiểu môi trường đầu tư tại Đồng Nai, Tập đoàn mong muốn đầu tư 3 dự án công nghệ cao trong lĩnh vực quang học tiên tiến, đo lường và sản xuất linh kiện bán dẫn.

Sau khi trực tiếp nghe nhà đầu tư đề xuất dự án, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai Nguyễn Hồng Lĩnh hy vọng sau buổi làm việc, doanh nghiệp sớm kết nối với các sở, ngành của tỉnh để xúc tiến đầu tư vào Đồng Nai.

Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai giao UBND tỉnh và các sở, ngành quan tâm đào tạo lao động chất lượng cao tại địa phương để đáp ứng nhu cầu lao động cho các dự án công nghệ cao đầu tư vào Đồng Nai. Đồng thời, bảo đảm cung cấp các dịch vụ như điện, nước, công nghệ thông tin và các dịch vụ đi kèm cho nhà đầu tư

Liên quan đến thu hút FDI vào Đồng Nai, vấn đề khó khăn nhất hiện nay của tỉnh là thiếu quỹ đất lớn cho nhà đầu tư thuê. Theo quy hoạch đã được Chính phủ phê duyệt, Đồng Nai sẽ thành lập thêm 8 khu công nghiệp mới với tổng diện tích hơn 8.200 ha.

Thế nhưng, từ năm 2020 đến nay, các khu công nghiệp nằm trong quy hoạch của Đồng Nai đều gặp vướng mắc liên quan đến thủ tục đầu tư, xử lý đất cao su, đất rừng, xác định đất đấu giá, đấu thầu, quy hoạch phân khu…

Được biết, thời gian qua rất nhiều tập đoàn nước ngoài đã tới Đồng Nai tìm hiểu cơ hội đầu tư, song do thiếu quỹ đất công nghiệp nên nhà đầu tư đã chọn các địa phương khác. Vì vậy, Đồng Nai đã bỏ lỡ cơ hội thu hút các dự án có vốn đầu tư lên đến hàng tỷ USD.

Để thu hút được các dự án FDI công nghệ cao, mới đây, tỉnh Đồng Nai quyết định thành lập Tổ công tác thúc đẩy việc phát triển các khu công nghiệp mới để thu hút doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư.

Quảng Ngãi công bố quy hoạch Khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ Bình Thanh rộng 3.391 ha

Đại diện Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp Quảng Ngãi cho biết, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1092/QĐ-UBND ngày 10/10/2023 phê duyệt Đồ án Quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 Khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ Bình Thanh và Quy định quản lý theo đồ án Quy hoạch phân khu, có diện tích khoảng 3.391,55 ha thuộc địa bàn các xã: Bình Thanh, Bình Hiệp, Bình Long, Bình Phước, Bình Hòa, Bình Tân Phú (Bình Sơn).

Ảnh phối cảnh quy hoạch phân khu xây dựng tỷ lệ 1/2000 Khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ Bình Thanh.

Quy hoạch có giới cận phía Đông giáp tuyến đường quy hoạch (trục kinh tế phía Đông D4); phía Tây giáp quốc lộ 1 và khu dân cư xã Bình Hiệp; phía Nam giáp khu vực núi Đồng Lụa, núi Phượng Hoàng và phía bắc giáp đường Võ Văn Kiệt (quốc lộ 24C). Đây là khu vực phát triển công nghiệp, đô thị, dịch vụ phía Nam Khu kinh tế Dung Quất, phát triển công nghiệp đa ngành, công nghệ cao thân thiện môi trường, gắn với đô thị, dịch vụ hỗ trợ.  

Các chỉ tiêu về hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật tuân thủ theo Đồ án Điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Về định hướng tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan, theo quy hoạch, đối với các khu công nghiệp tập trung quỹ đất phát triển khu công nghiệp đa ngành, công nghiệp công nghệ cao thân thiện với môi trường được phát triển tại các khu vực dọc đường Võ Văn Kiệt, đường N4, đường D4. Hình thành Khu đô thị - dịch vụ trên cơ sở bố trí trung tâm đô thị mới tại ngã giao đường N 4 và đường Hoàng Sa - Dốc Sỏi, gắn kết các khu ở hiện hữu tại trung tâm xã Bình Thanh và phát triển không gian đô thị dọc theo tuyến đường ĐH 4 về phía Nam; hình thành đơn vị ở phía Đông Bắc (tại xã Bình Hòa).

Đồng thời, khai thác cảnh quan tự nhiên sông, suối, hồ, trong khu vực, hình thành công viên trung tâm kết hợp hồ điều hòa tại trung tâm đô thị, gắn kết dãy công viên cây xanh cảnh quan ven sông Bàu Đông, hồ Ao Gió, hồ Gia Hội. Bố trí hệ thống kênh đảm bảo giải pháp thoát nước cho khu vực, tạo không gian sinh thái trong khu công nghiệp.

Về định hướng ưu tiên thu hút đầu tư, Khu công nghiệp, đô thị, dịch vụ Bình Thanh ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật, đầu tư hạ tầng các tuyến đường trục chính để hình thành bộ khung giao thông chính và thuận lợi cho việc kết nối giao thông trong khu vực; đầu tư hệ thống thoát nước, xử lý nước thải, hệ thống cấp nước và PCCC....

Về hạ tầng xã hội, ưu tiên xây dựng các dịch vụ công cộng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, nâng cao tiện ích sống người dân như xây dựng vườn hoa, cây xanh, khu thể dục thể thao, các điểm sinh hoạt văn hóa; các công trình giáo dục, y tế. Ngoài ra, kêu gọi đầu tư xã hội hóa các công viên cây xanh tập trung cấp đô thị, các công trình thương mại dịch vụ...

Phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Hồ chứa nước Bản Mồng Giai đoạn 1

Tại Quyết định số 1248/QĐ-TTg, Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn rà soát, cân đối trong phạm vi tổng nguồn vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 đã được giao, bố trí đủ số vốn hơn 230 tỷ đồng để hoàn thành Dự án theo tiến độ vào năm 2025.

Cùng với đó UBND tỉnh Nghệ An cũng có công văn thực hiện Quyết định nếu trên của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Hồ chứa nước Bản Mồng (giai đoạn 1) tỉnh Nghệ An đảm bảo kịp thời, đúng quy định.

Hồ chứa nước Bản Mông Giai đoạn 1 vừa được TTCP phê duyệt bố trí hơn 230 tỷ đồng để hoàn thành Dự án theo tiến độ đến năm 2025
Hồ chứa nước Bản Mồng Giai đoạn 1 vừa được TTCP phê duyệt bố trí hơn 230 tỷ đồng để hoàn thành dự án theo tiến độ đến năm 2025

Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng giai đoạn 1 có dung tích 225 triệu m3, 8 trạm bơm lấy nước dọc sông Hiếu và Nhà máy thủy điện công suất 45MW. Dự án Hồ chứa nước Bản Mồng giai đoạn 1 có tổng mức đầu tư dự kiến là 5,552 ngàn tỷ đồng (không bao gồm nguồn vốn của doanh nghiệp đầu tư hợp phần thủy điện) được bố trí từ ngân sách Nhà nước . Trong đó, nguồn vốn giai đoạn 2010 – 2020 là 3,496 ngàn tỷ đồng đã thực hiện; nguồn vốn giai đoạn 2021 - 2025 là 2,056 ngàn tỷ đồng đã được bố trí 1,822 ngàn tỷ đồng vào năm 2021 theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; còn thiếu 234 tỷ đồng. Đối với số vốn còn thiếu, Thủ tướng giao Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm rà soát, cân đối trong phạm vi tổng nguồn vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đã được giao, bố trí đủ vốn 234 tỷ đồng để hoàn thành dự án theo đúng tiến độ.

Công trình đầu mối và lòng hồ của dự án thuộc các huyện Nghĩa Đàn, Quỳ Châu, Quỳ Hợp (Nghệ An) và huyện Như Xuân (Thanh Hóa); trong đó công trình đầu mối nằm tại xã Yên Hợp, huyện Quỳ Hợp.

Thủ tướng Chính phủ giao UBND các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa chịu trách nhiệm toàn diện về số liệu, nội dung, đề xuất điều chỉnh hợp phần bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; bổ sung chỉ tiêu đất thủy lợi cho dự án trên địa bàn theo quy định của pháp luật về đất đai; tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn và triển khai thực hiện Hợp phần bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, công tác chuyển đổi mục đích sử dụng rừng các nội dung khác trong phạm vi quản lý và trách nhiệm của địa phương theo đúng quy định của pháp luật; đảm bảo tiến độ giải phóng mặt bằng để thực hiện đầu tư xây dựng Dự án; tổ chức bảo vệ phạm vi mặt bằng công trình đã được giải phóng đến khi công trình bàn giao đưa vào sử dụng, không để xảy ra tái lấn chiếm

Rà soát các trạm dừng nghỉ đang xây dựng, khai thác trên cao tốc Bắc - Nam 

Theo thông tin của Báo điện tử Đầu tư – Baodautu.vn, Bộ GTVT vừa có công văn gửi UBND các tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Long An, Tiền Giang về việc rà soát các trạm dừng nghỉ đang đầu tư xây dựng, khai thác trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông.

Ảnh minh hoạ.
Ảnh minh hoạ.

Bộ GTVT cho biết, để đáp ứng yêu cầu phục vụ khai thác, thời gian vừa qua một số địa phương đã chủ động đầu tư trạm dừng nghỉ trên một số đoạn đường cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông, trạm dừng nghỉ trên tuyến quốc lộ có hướng tuyến trùng với quy hoạch tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông.

Tuy nhiên, do hệ thống pháp luật về đầu tư trạm dừng nghỉ còn hạn chế nên thực tiễn đầu tư, khai thác trạm dừng nghỉ còn bất cập, chưa đồng bộ, hiệu quả.

Với vai trò là tuyến huyết mạch, trục xương sống của quốc gia, để có giải pháp khai thác đồng bộ, hiệu quả các trạm dừng nghỉ trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông, Bộ GTVT sẽ tổ chức đoàn kiểm tra, phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương thực hiện rà soát các trạm dừng nghỉ đang đầu tư hoặc đã đưa vào khai thác trên tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông.

“Để phục vụ công tác kiểm tra, rà soát trạm dừng nghỉ, Bộ GTVT đề nghị UBND các tỉnh giao một cơ quan chức năng của tỉnh làm đầu mối, phối hợp với chủ đầu tư trạm dừng nghỉ chuẩn bị báo cáo về tình hình đầu tư, khai thác các trạm dừng nghỉ, gửi Bộ GTVT trước ngày 3/11/2023 để tổng hợp”, công văn của Bộ GTVT nêu rõ.

Được biết, các trạm dừng nghỉ đang đầu tư, đã đưa vào khai thác được Bộ GTVT kiểm tra lần này gồm: trạm Km 81+600 thuộc đoạn Bắc Giang – Lạng Sơn; trạm Km120+200 (phải tuyến), trạm Km140 + 300 (trái tuyến), trạm Km145+800 (trái tuyến) thuộc đoạn Hà Nội – Bắc Giang; trạm Km269+313 (trái tuyến), trạm Km269+410 (phải tuyến) thuộc đoạn Cao Bồ - Mai Sơn; trạm Km80+850 (phải tuyến) thuộc đoạn Cam Lộ - La Sơn; trạm Km1+200 (trái tuyến) thuộc đoạn La Sơn – Hoà Liên; trạm Km28+200 thuộc đoạn Bến Lức – Trung Lương; trạm Km78+220 thuộc đoạn Trung Lương – Mỹ Thuận.

Các chủ đầu tư cần nêu rõ kết quả triển khai các công việc đến nay (công tác lập, phê duyệt phương án đầu tư, thiết kế, dự toán; GPMB; xây dựng hạ tầng kết nối, xây dựng các hạng mục của trạm dừng nghỉ…); tình hình kinh doanh, khai thác: lượng xe, số lượng hành khách sử dụng dịch vụ trạm dừng nghỉ, đánh giá khả năng đáp ứng phục vụ nhu cầu hành khách sử dụng dịch vụ trạm dừng nghỉ.

Phê duyệt Khung chính sách bồi thường Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn

Tại văn bản số 1036/TTg-CN ngày 1/11/2023, Phó thủ tướng Trần Hồng Hà đã phê duyệt Khung chính sách về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Dự án đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn.

Phó thủ tướng yêu cầu Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm toàn diện về nội dung Khung chính sách.

Ủy ban nhân dân các tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang chịu trách nhiệm chỉ đạo thực hiện Khung chính sách đã được phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật.

Dự án xây dựng đường Hồ Chí Minh, đoạn Chợ Chu - Ngã ba Trung Sơn có điểm đầu tại Chợ Chu (tương ứng Km245+878 - điểm cuối đoạn Chợ Mới - Chợ Chu) thuộc địa phận thị trấn Chợ Chu, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên; điểm cuối tại điểm giao với Quốc lộ 2C tại ngã ba Trung Sơn (tương ứng Km275+700) thuộc địa phận xã Trung Sơn, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Tổng chiều dài đoạn tuyến khoảng 29,48 km. Địa điểm xây dựng Dự án nằm trọn trong địa phận huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang.

Tuyến được thiết kế đạt tiêu chuẩn kỹ thuật đối với đường cấp III miền núi, vận tốc thiết kế 60 km/h đảm bảo phù hợp và đồng bộ với đoạn Chợ Mới - Chợ Chu đang khai thác, riêng đoạn tuyến đi qua khu vực Trung tâm xã Trung Sơn với chiều dài khoảng 532 m thiết kế theo tiêu chuẩn đường đô thị.

Việc  đầu tư đoạn Chợ Chu - ngã ba Trung Sơn sẽ góp phần nối thông tuyến đường Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) đến Đất Mũi (Cà Mau), đồng thời đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Ngoài ra, việc đầu tư xây dựng tuyến đường nhằm thúc đẩy tiềm năng phát triển du lịch, đặc biệt là hai tỉnh có nhiều di tích lịch sử cách mạng như Chiến khu ATK, Đình Hồng Thái...

Lâm Đồng yêu cầu giải ngân 100% kế hoạch vốn đối với 28 dự án trong năm 2023

Ông Võ Ngọc Hiệp, Phó chủ tịch UBND tỉnh Lâm Đồng vừa thay mặt UBND tỉnh yêu cầu chủ đầu tư các Dự án được phê duyệt chủ trương đầu tư, điều chỉnh chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 215/NQ-HĐND ngày 27/10/2013 của HĐND tỉnh Lâm Đồng khẩn trương hoàn thành các thủ tục lập dự án, điều chỉnh dự án đầu tư; trình thẩm định, phê duyệt theo quy định để sớm triển khai thi công công trình, dự án.

Các sở xây dựng chuyên ngành, các phòng chuyên môn thuộc UBND cấp huyện đẩy nhanh công tác thẩm định hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công, dự toán, kế hoạch lựa chọn nhà thầu để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

UBND tỉnh Lâm Đồng giao Sở Kế hoạch và Đầu tư đôn đốc các đơn vị, chủ đầu tư đẩy nhanh hoàn thành các thủ tục liên quan để triển khai thi công công trình, dự án; đảm bảo giải ngân 100% kế hoạch vốn bố trí năm 2023 theo quy định.

Trước đó, tại Nghị quyết số 215/NQ-HĐND ngày 27/10/2013 của HĐND tỉnh Lâm Đồng, HĐND tỉnh đã phê duyệt chủ trương đầu tư các dự án đầu tư công, gồm 1 dự án sử dụng vốn ngân sách Trung ương và 23 dự án sử dụng vốn ngân sách tỉnh.

Cụ thể, Dự án xây dựng Hồ chứa nước Đạ Trang, xã Đạ Tồn, huyện Đạ Huoai (sử dụng vốn ngân sách Trung ương). Dự án xây dựng Nhà thiếu nhi huyện Đơn Dương, dự án Xây dựng Trường THPT Đức Trọng; Dự án mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu lớp 3, lớp 7 và lớp 10; Dự án Cải tạo, sửa chữa một số hạng mục trụ sở Trường Cao đẳng Đà Lạt; Dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan Đảng tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2021 - 2025; Dự án Sửa chữa mở rộng khối 30 phòng Nhà khách Tỉnh ủy; Dự án mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác khám và điều trị của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Lâm Đồng; Dự án Xây dựng, nâng cấp, cải tạo một số hạng mục và mua sắm trang thiết bị y tế Trung tâm Y tế huyện Đức Trọng; Dự án Xây dựng mở rộng tuyến đường trục chính thị trấn Lộc Thắng tại huyện Bảo Lâm; Dự án Thảm nhựa các tuyến đường Nguyễn Đình Chiểu, Sương Nguyệt Ánh, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Trỗi tại TP. Đà Lạt, Dự án Mở rộng đường Trần Quốc Toản (đoạn từ nút giao Trần Nhân Tông - Trần Quốc Toản đến nút giao Đinh Tiên Hoàng - Trần Quốc Toản, TP. Đà Lạt); Dự án Xây dựng Hệ thống cấp điện tại khu quy hoạch Trung tâm hành chính, Quảng trường huyện Đức Trọng; Dự án Nâng cấp, mở rộng đường Võ Trường Xuân, phường 8, TP. Đà Lạt; Dự án Đầu tư xây dựng và cải tạo sửa chữa một số hạng mục Trường THPT chuyên Bảo Lộc; Dự án Thảm nhựa đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, TP. Đà Lạt (sử dụng vốn ngân sách tỉnh).

Liên quan đến 2 tuyến cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc và Bảo Lộc - Liên Khương, HĐND tỉnh đã phê duyệt chủ trương đầu tư loạt dự án, gồm: Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại thị trấn Lộc Thắng, huyện Bảo Lâm phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc và Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Liên Hiệp, huyện Đức Trọng phục vụ xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Phú Hội, huyện Đức Trọng phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Ninh Gia, huyện Đức Trọng phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Đạ Oai, huyện Đạ Huoai phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc; Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại phường Lộc Phát, TP. Bảo Lộc phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Tân Phú - Bảo Lộc và Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Hòa Ninh phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương; Dự án Xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu dân cư, tái định cư tại xã Gung Ré, huyện Di Linh phục vụ Dự án Xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Bảo Lộc - Liên Khương (sử dụng vốn ngân sách tỉnh).

Đồng thời, HĐND tỉnh phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư với 3 dự án sử dụng ngân sách Trung ương, gồm: Dự án Xây dựng đường giao thông từ xã B’lá, huyện Bảo Lâm đi xã Đam B’ri, TP. Bảo Lộc; Dự án Xây dựng đường liên xã Đạ Oai - Đạ Tồn - Phước Lộc, huyện Đạ Huoai; Dự án Nâng cấp tuyến đường liên xã Đinh Trang Hòa đi Tân Lâm và đường vài đai phía Đông thị trấn Di Linh, huyện Di Linh.

Cùng với đó, HĐND tỉnh cũng phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư 1 dự án sử dụng vốn ngân sách tỉnh (Dự án Xây dựng đường vành đai TP. Đà Lạt và cơ sở hạ tầng các khu dân cư, TP. Đà Lạt).

Phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia

Phó thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà ký Quyết định 1277/QĐ-TTg phê duyệt khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia.

Theo đó, phê duyệt 93 khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia đối với 10 loại khoáng sản cụ thể như sau: Than năng lượng có 2 khu vực; Quặng apatit có 2 khu vực; Quặng chì - kẽm có 1 khu vực; Quặng cromit có 3 khu vực; Quặng titan có 14 khu vực; Quặng bauxit có 23 khu vực; Quặng sắt-laterit có 14 khu vực; Đá hoa trắng có 17 khu vực; Cát trắng có 15 khu vực và Quặng đất hiếm có 2 khu vực.

Trong thời gian dự trữ của các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia nêu trên, việc quản lý, bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; thực hiện các Dự án đầu tư tại khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia phải tuân thủ quy định của Nghị định số 51/2021/NĐ-CP ngày 1/4/2021 của Chính phủ về quản lý khoáng sản tại các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia, quy định của pháp luật về khoáng sản và quy định sau:

Các Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản đã được cơ quan có thẩm quyền cấp phép trước ngày 1/11/2023 mà không thuộc khoáng sản dự trữ nêu trên thì tiếp tục thực hiện theo nội dung giấy phép đã cấp và quy định của pháp luật về khoáng sản.

Các khu vực có khoáng sản không thuộc loại khoáng sản dự trữ đã được đưa vào quy hoạch khoáng sản liên quan mà chưa cấp phép thăm dò, khai thác hoặc chưa đưa vào quy hoạch khoáng sản có liên quan thì được quy hoạch, cấp phép thăm dò, khai thác theo quy định của pháp luật về khoáng sản nhưng không được ảnh hưởng đến khoáng sản đã khoanh định là khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia.

Bộ Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có liên quan công khai các khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia đã được phê duyệt.

Bên cạnh đó, bàn giao hồ sơ khoanh định khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia cho Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia để quản lý, bảo vệ theo quy định.

Phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 Khu công nghiệp Quảng Trị

Ban quản lý Khu kinh tế Quảng Trị cho biết vừa có quyết định về việc phê duyệt Đồ án Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu công nghiệp Quảng Trị.

Theo đó, đồ án quy hoạch có địa điểm và phạm vi tại xã Hải Trường, xã Hải Lâm và thị trấn Diên Sanh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Theo quyết định này, phạm vi ranh giới đồ án quy hoạch phù hợp với quyết định chủ trương đầu tư Dự án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 23/3/2021 và quyết định phê duyệt quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2000 Khu công nghiệp Quảng Trị của UBND huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị ban hành vào ngày 30/12/2021.

Ranh giới của Khu công nghiệp Quảng Trị được xác định: Phía Tây Bắc giáp khu tái định cư phục vụ Khu công nghiệp – đô thị Việt Nam – Singapore (Vsip 8) và đất trồng cây lâu năm xã Hải Lâm. Phía Tây Nam giáp đất trồng cây lâu năm xã Hải Trường và thị trấn Diên Sanh. Phía Đông Bắc giáp đất hành lang bảo vệ kết cấu đường sắt Bắc – Nam và Quốc lộ 1A. Phía Đông Nam giáp khu tái định cư phục vụ Khu công nghiệp – đô thị Việt Nam – Singapore (Vsip 8) và đất trồng cây lâu năm xã Hải Trường.

Ngoài ra, đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu công nghiệp Quảng Trị không bao gồm phần quy hoạch đất giao thông Quốc lộ 15D và đất quy hoạch khoảng lùi Quốc Lộ 1A với diện tích 15,8ha theo Quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/2.000 Khu Công nghiệp Quảng Trị, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị được UBND huyện Hải Lăng phê duyệt tại Quyết định số 924/QĐ-UBND ngày 30/12/2021.

Theo đồ án quy hoạch chi tiết 1/500 được phê duyệt, Khu công nghiệp Quảng Trị có quy mô diện tích khoảng 481,2 ha. Quy mô dân số dự kiến khoảng 17.500 – 24.500 người.

Khu công nghiệp Quảng Trị có tính chất là khu công nghiệp hỗn hợp đa ngành, xanh, sạch; thu hút đầu tư các ngành nghề có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường. Là khu công nghiệp đáp ứng linh hoạt nhu cầu đa dạng về quy mô sử dụng đất của các nhà đầu tư; có hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.

Mục tiêu của Khu công nghiệp Quảng Trị sẽ là hình thành Khu công nghiệp với hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đồng bộ, đáp ứng đầy đủ nhu cầu hạ tầng của nhà đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất trong khu công nghiệp, góp phần thu hút đầu tư phát triển kinh tế xã hội cho tỉnh Quảng Trị.

Tổ chức, bố trí đầy đủ, hợp lý các khu chức năng của khu công nghiệp; tổ chức không gian đất công nghiệp trên nguyên tắc hiệu quả cao, phát huy tối đa quỹ đất, đáp ứng linh hoạt nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư; tổ chức mạng lưới đường giao thông đảm bảo kết nối thông suốt, an toàn và đạt hiệu quả cao nhất.

Bố trí hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của nhà đầu tư, đảm bảo kết nối với hệ thống hạ tầng kỹ thuật bên ngoài khu công nghiệp, đảm bảo tối đa hiệu quả kinh tế trong đầu tư xây dựng. Quy hoạch khu công nghiệp trên cơ sở phát triển bền vững, bảo vệ môi trường.

Về quy hoạch mặt bằng sử dụng đất, Khu công nghiệp Quảng Trị có tổng diện tích đất công trình hành chính, dịch vụ là 4,08 ha, chiếm tỷ lệ 0,85% diện tích khu đất quy hoạch khu công nghiệp. Đất công trình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kho tàng là 349,71 ha, chiếm tỷ lệ 72,67% diện tích khu đất quy hoạch khu công nghiệp. Đất cây xanh, mặt nước có diện tích 57,47 ha; đất công trình hạ tầng kỹ thuật có diện tích 7,51 ha; và đất hệ thống giao thông có diện tích 56,59 ha.

Ngoài ra, Khu công nghiệp còn có 3,46 ha đất là hiện trạng đường điện 110KV và hành lang bảo vệ an toàn công trình lưới điện; cùng 2,38 ha là phạm vi nút giao QL15D và QL1A.

Ông Phạm Ngọc Minh, Trưởng Ban quản lý Khu kinh tế Quảng Trị cho biết:" Việc thông qua Đồ án Quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 Khu công nghiệp Quảng Trị sẽ là cơ sở pháp lý cho công tác quản lý xây dựng theo quy hoạch, lập dự án đầu tư xây dựng các hạng mục hạ tầng kỹ thuật và kiến trúc của các nhà đầu tư thứ cấp sau khi đầu tư vào khu công nghiệp".

Được biết, cơ quan tổ chức lập quy hoạch Khu công nghiệp Quảng Trị là Công ty TNHH Liên doanh Phát triển Quảng Trị. Đây là doanh nghiệp dự án do 3 nhà đầu tư liên doanh hợp tác gồm Công ty liên doanh TNHH khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (VSIP JV); CTCP đô thị Amata Biên Hòa (thuộc Tập đoàn Amata Thái Lan) và Tập đoàn Sumitomo Corporation Nhật Bản) lập ra. Đơn vị tư vấn lập quy hoạch là Công ty cổ phần công nghệ Xây dựng ACUD Việt Nam.

Dự án được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư vào ngày 23/3/2021 với tổng vốn đầu tư 2.074 tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 1 có quy mô 97,4 ha - tổng vốn đầu tư 504,39 tỷ đồng.

Cho phép 3 cầu cảng tại Cảng Tiên Sa được tiếp nhận tàu container

Bộ GTVT vừa có công văn gửi UBND TP. Đà Nẵng; Cục Hàng hải Việt Nam; Công ty cổ phần cảng Đà Nẵng về việc bổ sung công năng cầu cảng số 1, 2, 3 khu bến cảng Tiên Sa được phép tiếp nhận tàu container.

Cụ thể, Bộ GTVT chấp thuận bổ sung công năng cầu cảng số 1, 2 khu bến cảng Tiên Sa được phép tiếp nhận tàu container, cầu cảng số 3 tiếp nhận tàu đến 50.000 tấn giảm tải như đề nghị của Công ty cổ phần cảng Đà Nẵng và ý kiến thống nhất của UBND TP. Đà Nẵng, Cục Hàng hải Việt Nam.

Bộ GTVT đề nghị UBND TP. Đà Nẵng chỉ đạo các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ với Cục Hàng hải Việt Nam hướng dẫn, giám sát Công ty cổ phần cảng Đà Nẵng triển khai các bước tiếp theo phù hợp với quy hoạch cảng biển, tuân thủ các quy định của pháp luật, đảm bảo an toàn hàng hải, phòng cháy chữa cháy, bảo vệ môi trường.

Công ty CP cảng Đà Nẵng có trách nhiệm triển khai các bước tiếp theo đảm bảo tuân thủ các quy định tại Nghị định số 58/2017/NĐ-CP ngày 10/5/2017 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết một số điều của Bộ luật Hàng hải về quản lý hoạt động hàng hải và các quy định có liên quan của pháp luật; xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng bến cảng đảm bảo đáp ứng đầy đủ điều kiện khai thác hàng container với cỡ tàu được thỏa thuận.

Đơn vị chủ cầu cảng cũng phải căn cứ điều kiện hiện hữu tuyến luồng hàng hải Tiên Sa để xây dựng phương án điều động tàu, khai thác bến cảng đảm an toàn công trình bến cảng; khai thác đúng công năng bến cảng; không kiến nghị Bộ GTVT đầu tư nâng cấp luồng hàng hải Tiên Sa; tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư khai thác bến cảng, đảm bảo an toàn, an ninh hàng hải, phòng chống cháy nổ, phòng ngừa ô nhiễm môi trường.

Cảng Tiên Sa được yêu cầu tiếp thu ý kiến của UBND TP. Đà Nẵng trong việc chủ động xây dựng kế hoạch từng bước chuyển đổi công năng khu bến Tiên Sa thành cảng du lịch theo định hướng tại Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030.

Theo Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021, khu bến Tiên Sa được quy hoạch gồm các bến cảng cho tàu container đến 4.000 TEU (50.000 tấn), tàu tổng hợp, hàng rời trọng tải đến 50.000 tấn; tàu khách quốc tế đến 225.000 GT.

Do vậy, việc Công ty cổ phần Cảng Đà Nẵng đề nghị cho phép cầu cảng số 1, số 2, số 3 Bến cảng Tiên Sa được tiếp nhận tàu container phù hợp với định hướng quy hoạch cảng biển được duyệt.

Bên cạnh đó, tại Quyết định số 2369/QĐ-BGTVT ngày 29/7/2016 của Bộ GTVT phê duyệt Quy hoạch chi tiết nhóm cảng biển Trung Trung Bộ (Nhóm 3) giai đoạn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, khu bến Tiên Sa đáp ứng lượng hàng dự báo đến năm 2020 khoảng 8,6 triệu tấn, đến năm 2030 khoảng 11,9-13,8 triệu tấn.

Do điều kiện kết nối giao thông sau hạn hạn chế, Bộ GTVT và UBND TP. Đà Nẵng đã thống nhất lượng hàng thông qua khu bến Tiên Sa bằng đường bộ tối đa 10 triệu tấn/năm.

Theo Cục Hàng hải Việt Nam, các cầu cảng số 1, 2 tiếp nhận tàu tổng hợp đến 45.000 tấn giảm tải; cầu cảng số 3, 4, 5 đã tiếp nhận tàu container sức chở từ 20.000-50.000 tấn.; lượng hàng thông qua năm 2021, 2022 và 7 tháng đầu năm 2023 lần lượt là 8,79; 8,73 và 5,45 triệu tấn đảm bảo không vượt quá lượng hàng tối đa qua khu bến đã được hoạch định là 10 triệu tấn/năm.

Hải Dương xem xét danh mục 9 nhà ở xã hội trên địa bàn

Ngày 2/11, ông Lưu Văn Bản, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hải Dương chủ trì phiên họp thường kỳ tháng 11 (lần 1) của UBND tỉnh.

Tại phiên họp, các đại biểu đã thảo luận, xem xét nội dung tờ trình của Sở Kế hoạch và Đầu tư về việc phê duyệt danh mục các Dự án nhà ở xã hội thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Hải Dương giai đoạn 2023-2030.

Theo tờ trình của sở, có 9 danh mục dự án nhà ở xã hội thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh. Trong đó, có 8 dự án trên địa bàn TP. Hải Dương và 1 dự án trên địa bàn TP. Chí Linh. Trong 9 dự án đề xuất, diện tích mỗi khu nhà ở xã hội từ 0,49 ha đến 6,25 ha.

Theo đó, 9 dự án nhà ở xã hội được đề xuất thu hút đầu tư gồm các khu nhà ở xã hội thuộc dự án: Đầu tư xây dựng khu đô thị sinh thái ven sông Thái Bình (EcoRivers) ở phường Ngọc Châu và phường Hải Tân; đầu tư xây dựng khu đô thị Phú Quý (Golden Land) - giai đoạn I ở phường Thạch Khôi và xã Tân Hưng; khu dân cư Ngọc Châu ở phường Ngọc Châu; khu dân cư Trái Bầu ở phường Lê Thanh Nghị; khu trung tâm phường Phạm Ngũ Lão (khu vực 1 - phía bắc đường Phạm Ngũ Lão); khu đô thị trung tâm TP Hải Dương (Diamond Land) ở phường Nguyễn Trãi; khu dân cư phía đông đường Tân Dân ở phường Việt Hoà; khu dân cư mới phía tây phường Tứ Minh (cùng ở TP Hải Dương) và khu nhà ở xã hội thuộc dự án khu đô thị mới phía đông ở phường Cộng Hoà (Chí Linh).

Về nội dung này, ông Lưu Văn Bản, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Hải Dương kết luận, UBND tỉnh cơ bản thống nhất với nội dung tờ trình của Sở Kế hoạch và Đầu tư, trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các đại biểu dự họp, giao Sở Kế hoạch và Đầu tư rà soát, hoàn thiện danh mục dự án nhà ở xã hội thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh báo cáo, tham mưu UBND tỉnh quyết định phê duyệt, công bố danh mục các dự án.

Sở Xây dựng chủ trì phối hợp các địa phương tiếp nhận các dự án nhà ở xã hội, xây dựng quy trình các bước triển khai dự án, hướng dẫn các địa phương, đôn đốc, giám sát, kiểm tra, theo dõi thực hiện. Trong đó, thực hiện các công việc liên quan đến quy hoạch, tổ chức thiết kế mặt bằng, tính toán công năng, quy mô dự án, tổng vốn đầu tư để có cơ sở tổ chức lựa chọn nhà đầu tư. Yêu cầu các địa phương có dự án nhà ở xã hội căn cứ vào danh mục, xây dựng kế hoạch triển khai dự án theo tiến độ báo cáo UBND tỉnh.

UBND tỉnh cũng thống nhất nội dung tờ trình của Sở Kế hoạch và Đầu tư về điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án xây dựng đường trục Đông – Tây tỉnh Hải Dương. Trong đó, thống nhất giữ nguyên tổng vốn đầu tư, tăng nguồn vốn ngân sách trung ương và giảm vốn từ ngân sách tỉnh.

Theo ông Nguyễn Hải Châu, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương, giai đoạn 2023 - 2030, tỉnh Hải Dương dự kiến thu hút đầu tư đối với một số dự án nhà ở xã hội tại TP. Hải Dương, TP. Chí Linh và huyện Cẩm Giàng. Điều này cũng phù hợp với quyết định phê duyệt “Chương trình phát triển nhà ở tỉnh Hải Dương giai đoạn năm 2022 – 2030, định hướng đến năm 2045” của Tỉnh. Theo đó, đến năm 2030, Hải Dương đặt ra mục tiêu về phát triển nhà ở với diện tích nhà ở bình quân toàn tỉnh đạt khoảng 35,5 m2 sàn/người. Tổng diện tích sàn nhà ở đạt trên 99 triệu m2; diện tích sàn nhà ở tăng thêm trên 44 triệu m2.

Trong đó, nhà ở dạng chung cư sẽ tiến hành xây dựng mới trên 251.000 m2 sàn nhà ở. Đối với các nhóm đối tượng xã hội sẽ tiến hành xây dựng mới trên 335.000 m2 sàn nhà ở tái định cư; thực hiện tốt chính sách hỗ trợ về nhà ở cho người có công với cách mạng và hộ nghèo; xây dựng trên 1 triệu m2 sàn nhà ở xã hội gồm trên 295.000 m2 sàn nhà ở cho người có thu nhập thấp tại đô thị và trên 766.000 m2 sàn nhà ở cho công nhân.

Đến năm 2045, Hải Dương phấn đấu đạt chỉ tiêu diện tích nhà ở bình quân toàn tỉnh khoảng 37,0 m2 sàn/người, nâng tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 100%. Cùng đó, phát triển đồng bộ các loại hình nhà ở đáp ứng nhu cầu của xã hội.

Kon Tum điều chỉnh tiến độ Dự án Công trình nhà máy thủy điện Đăk Pône

Ông Lê Ngọc Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Kon Tum vừa ký Quyết định chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư của Dự án Công trình nhà máy thủy điện Đăk Pône của Công ty cổ phần đầu tư điện lực 3 (đã được của UBND tỉnh Kon Tum cấp Giấy chứng nhận đầu tư số 38121000007 ngày 4/4/2008, Quyết định chấp thuận điều chỉnh chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư số 553/QĐ-UBND ngày 28/6/2021).

Theo đó, UBND tỉnh điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án giai đoạn 1: Khởi công ngày 21/12/2004, phát điện vào tháng 6/2010 (Xây dựng nhà máy hồ A và hạng mục phụ hồ B).

Tiến độ thực hiện dự án giai đoạn 2: Từ tháng 3/2021 đến tháng 10/2025 (nâng đập hồ A và xây dựng cụm nhà máy hồ B), trong đó, nâng đập hồ A: Từ tháng 3/2021 đến tháng 3/2023. Từ cuối tháng 3/2023 đưa hạng mục nâng đập hồ A đi vào vận hành thương mại; Xây dựng cụm nhà máy hồ B: Từ tháng 4/2023 đến tháng 10/2025 (trong đó, tiến độ chuẩn bị đầu tư, hoàn thiện thủ tục pháp lý: Từ tháng 4/2023 đến tháng 4/2024; tiến độ xây dựng các hạng mục: Từ tháng 5/2024 đến tháng 10/2025; từ cuối tháng 10/2025 đưa nhà máy hồ B đi vào vận hành thương mại, hoàn thành toàn bộ dự án”.

Nhà đầu tư có trách nhiệm triển khai thực hiện dự án theo đúng mục tiêu, nội dung, tiến độ cam kết; tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tư, xây dựng, đất đai, lâm nghiệp, môi trường, khoáng sản, lao động, nghĩa vụ tài chính và các quy định khác có liên quan.

Nhà đầu tư có trách nhiệm thực hiện đúng chế độ báo cáo theo quy định của Luật Đầu tư năm 2020; thực hiện ký quỹ bổ sung đối với phần vốn tăng thêm của giai đoạn 2 dự án theo quy định; không được làm ảnh hưởng đến diện tích rừng tự nhiên hiện có chưa được Thủ tướng Chính phủ cho phép, thực hiện nghiêm Luật Lâm nghiệp 2017 và các quy định có liên quan.

Trong giai đoạn tiếp theo của dự án, UBND tỉnh Kon Tum đề nghị Công ty cổ phần đầu tư điện lực 3 phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các đơn vị liên quan hoàn thiện các thủ tục pháp lý có liên quan để đảm bảo điều kiện đầu tư xây dựng dự án, đưa dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy định; thực hiện đầy đủ các biện pháp giảm thiểu tác động tiêu cực của dự án đối với môi trường, xã hội; xây dựng, thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng bằng (nếu có).

Dự án Công trình Nhà máy thủy điện Đăk Pône có công suất lắp đặt 14MW, được xây dựng trên địa bàn thị trấn Măng Đen, huyện Kon Plông, tỉnh Kon Tum.

Phú Yên tiếp tục yêu cầu quản lý chặt chẽ vật liệu xây dựng phục vụ cao tốc

Liên quan đến tiến độ Dự án Xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam giai đoạn 2021 - 2025, đoạn qua địa phận tỉnh Phú Yên (gọi tắt là Dự án Cao tốc qua tỉnh Phú Yên), Sở Giao thông vận tải tỉnh này cho biết, tính đến hết ngày 31/10, các địa phương đã bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư 86,58 km/ 90,12 km, đạt 96,08%; phần khối lượng còn lại 3,54 km chủ yếu là đất nhà ở của hộ gia đình.

Về xây dựng 12 khu tái định cư, tỉnh Phú Yên có 4 khu tái định cư xây dựng hoàn thành; 8 khu tái định cư đang thi công san lấp mặt bằng đạt từ 90 - 100%. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện có 1 địa phương cơ bản hoàn thành việc di dời; 3 địa phương đang triển khai di dời; 2 địa phương còn lại đang lựa chọn nhà thầu.

Tuy nhiên, công tác giải ngân nguồn vốn giải phóng mặt bằng của tỉnh Phú Yên đang chậm so với kế hoạch dự kiến. Cụ thể, lũy kế đã giải ngân đến ngày 31/10 được 793,369 tỷ đồng, đạt 40,72% (so với tổng kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng tái định cư trên địa bàn tỉnh là 1.948 tỷ đồng).

Trong cuộc họp Ban chỉ đạo tỉnh về dự án cao tốc ngày 2/11, ông Tạ Anh Tuấn, Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên nhấn mạnh việc khai thác và cung ứng vật liệu xây dựng cho dự án cao tốc Bắc - Nam đang được áp dụng một số cơ chế đặc thù. Tuy nhiên, không để lợi dụng cơ chế đặc thù này để xảy ra những sai phạm.

Các nhà thầu phải chịu trách nhiệm trong công tác quản lý mỏ, nếu có hiện tượng bán vật liệu xây dựng ra bên ngoài, thì phải chịu trách nhiệm.

Chủ tịch tỉnh Phú Yên cũng yêu cầu, trong thời gian đến, các địa phương cần sớm hoàn thành các khu tái định cư để ổn định cuộc sống cho người dân.

Đối với các chủ đầu tư và đơn vị thi công, Chủ tịch tỉnh Phú Yên yêu cầu đẩy nhanh tiến độ khai thác, cung ứng vật liệu xây dựng để đẩy nhanh tiến độ thi công dự án.

Trước đó, UBND tỉnh Phú Yên cũng yêu cầu Ban Quản lý dự án 7 và Ban Quản lý dự án 85 kiểm soát chặt chẽ việc cung cấp vật liệu thi công Dự án cao tốc Bắc - Nam, đảm bảo về nguồn gốc hợp pháp, đạt chất lượng theo quy định; thường xuyên theo dõi, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản của các nhà thầu thi công đảm bảo theo đúng phạm vi, diện tích, khối lượng, mục đích khai thác tại các mỏ đã đăng ký.

Các nhà thầu trong quá trình khai thác phải thực hiện đầy đủ các phương pháp, quy trình, bảo đảm an toàn kỹ thuật, phòng, chống các sự cố, bảo đảm an toàn lao động và các quy định có liên quan về an toàn trong khai thác mỏ. Sau khi kết thúc khai thác, các nhà thầu phải thực hiện việc cải tạo, phục hồi môi trường, nghiệm thu khối lượng đã khai thác theo quy định.

Hết tháng 9/2023, Quảng Bình thu hút đầu tư gần 10.000 tỷ đồng

Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Bình cho biết, tính đến hết tháng 9/2023, tỉnh Quảng Bình đã chấp thuận chủ trương đầu tư cho 25 dự án với tổng vốn đầu tư 9.896,6 tỷ đồng.

Trong đó, bao gồm 18 Dự án ngoài khu kinh tế với tổng vốn đầu tư 2.229,1 tỷ đồng và 2 Dự án trong khu kinh tế với tổng vốn 29,5 tỷ đồng; 5 dự án khu đô thị với tổng vốn 7.638 tỷ đồng.

Nổi bật nhất là dự án Xây dựng nhà ga hành khách T2 và mở rộng sân đỗ máy bay - Cảng hàng không Đồng Hới của Tổng Công ty Cảng hàng không Việt Nam - CTCP với tổng mức đầu tư 1.844 tỷ đồng. Đây là 1 trong 3 dự án động lực của tỉnh Quảng Bình.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Bình cũng điều chỉnh chủ trương đầu tư cho 45 dự án, trong đó có 28 dự án ngoài khu công nghiệp (KCN) – khu kinh tế và 17 dự án trong khu công nghiệp – khu kinh tế.

Cũng trong 9 tháng đầu năm 2023, Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Bình đã thực hiện thủ tục chấm dứt hoạt động đối với 3 dự án. Ngoài ra, Sở cũng đã báo cáo UBND tỉnh chấm dứt hoạt động đối với 2 dự án do nhà đầu tư không có khả năng thực hiện và xin chấm dứt hoạt động dự án.

Đối với các dự án chậm tiến độ, UBND tỉnh Quảng Bình đã tổ chức các buổi làm việc với các nhà đầu tư để yêu cầu báo cáo giải trình, chứng minh năng lực tiếp tục thực hiện và cam kết tiến độ cụ thể để giám sát, theo dõi.

Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư, từ đầu năm đến nay, UBND tỉnh Quảng Bình cũng đã có nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ doanh nghiệp và xúc tiến đầu tư.

Về xúc tiến đầu tư, tỉnh Quảng Bình đã tổ chức đoàn đi thăm và làm việc tại tỉnh Yamanashi, Nhật Bản từ ngày 19- 20/9/2023. Thông qua chuyến thăm và làm việc, UBND tỉnh Quảng Bình đã ký kết với Chính quyền tỉnh Yamanashi biên bản ghi nhớ thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa tỉnh Quảng Bình và tỉnh Yamanashi. Trong đó, hai tỉnh thống nhất thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, bao gồm lĩnh vực du lịch. Tổ chức “Tọa đàm kết nối Quảng Bình - Tokyo” tại Tokyo, Nhật Bản vào ngày 22/9/2023, trong đó đã giới thiệu, quảng bá điểm đến du lịch Quảng Bình, kêu gọi hợp tác đầu tư trên lĩnh vực du lịch;

Hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch, dịch vụ của tỉnh tham gia các sự kiện đối ngoại của tỉnh trong và ngoài nước.

Tổ chức làm việc và khảo sát các doanh nghiệp dệt may, các cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong cụm công nghiệp để xây dựng Đề án phát triển ngành Dệt may và Giày da tỉnh Quảng Bình đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2035; xây dựng cơ sở dữ liệu các cụm công nghiệp trên địa bàn theo phương án phát triển cụm công nghiệp trên địa bám theo phương án phát triển cụm công nghiệp trong quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Hỗ trợ nhà đầu tư khảo sát, nghiên cứu đề xuất một số dự án mới như: Dự án nhà máy xử lý nước thải An Thành tại KCN Tây Bắc Đồng Hới và KCN Bắc Đồng Hới; Dự án đầu tư xây dựng và Kinh doanh hệ thống kho bãi dịch vụ tại cửa khẩu Quốc tế Chalo của Công ty CP đầu tư kinh doanh dịch vụ xuất nhập khẩu Bình Nghi- Thiên Trường; dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng KCN Lý Trạch của Công ty CP Thanh Bình Phú Mỹ và Công ty TNHH Tập đoàn Vĩnh Hưng….

Chỉ đạo Sở Du lịch phối hợp với hiệp hội du lịch tỉnh Quảng Bình khảo sát điểm đến các thị trường tiềm năng; làm việc với các hãng hàng không, Sở Du lịch Quảng Ninh để đánh giá nhu cầu thị trường, xúc tiến mở đường bay mới.

Cung cấp thông tin, giới thiệu, khuyến khích các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp của tỉnh xem xét việc hợp tác, tham gia các chương trình xúc tiến thương mại, du lịch tại Thái Lan, Nhật Bản, Israel, Qatar, Iran, Ấn Độ, Úc, Italia, Hung ga ri, Thụy Sĩ,...

Cũng theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Bình cho biết, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, trong thời gian tới tỉnh Quảng Bình sẽ tiếp tục đẩy mạnh công tác rà soát, thực hiện cải cách thủ tục hành chính.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và triển khai thực hiện dịch vụ công trực tuyến đối với các thủ tục hành chính nhằm đảm bảo các điều kiện về hạ tầng kỹ thuật cho người dân và doanh nghiệp thuận lợi trong việc tiếp cận, tra cứu và thực hiện thủ tục hành chính, giải quyết kịp thời, đúng quy định và  rút ngắn thời gian giải quyết các thủ tục.

Bên cạnh đó, tỉnh Quảng Bình sẽ tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh như phát triển sản xuất chế biến nông lâm sản; phát triển mạnh các sản phẩm OCOP và ngành nghề nông thôn, xây dựng vùng nguyên liệu gỗ  rừng trồng, gắn với trồng rừng gỗ lớn và cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị rừng trồng.

Chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch chung, quy hoạch phân khu; rút ngắn tiến độ thẩm định chủ trương/ điều chỉnh chủ trương đầu tư, khảo sát, đánh giá hiện trạng, chuyển mục đích sử dụng rừng; thủ tục giao đất cho thuê đất…để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nhà đầu tư trong thực hiện các thủ tục đầu tư, sản xuất kinh doanh.

Đà Nẵng: Hơn 2.000 tỷ đồng đầu tư nhà máy đốt chất thải rắn phát điện 

Ngày 3/11, Sở Kế hoạch và Đầu tư TP.Đà Nẵng cho biết đã cấp Giấy chứng nhận đầu tưcho Dự án Nhà máy đốt chất thải rắn phát điện tại Khánh Sơn tại Khu liên hiệp xử lý rác thải rắn Khánh Sơn (quận Liên Chiểu).

Dự án này do Công ty Cổ phần Môi trường Việt Nam làm chủ đầu tư. Tổng vốn đầu tư của dự án hơn 2.000 tỷ đồng. Trong đó, vốn góp để thực hiện dự án hơn 404 tỷ đồng, vốn huy động từ tổ chức tín dụng hơn 1.600 tỷ đồng, sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng trong quý III/2026.

Quy mô dự án là đốt chất thải rắn sinh hoạt 650 tấn/ngày đêm; phân loại và đốt chất thải công nghiệp thông thường là 350 tấn/ngày; Sản xuất dầu PO thành phẩm và dầu RO thành phẩm…

Mục tiêu của dự án là xử lý chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn công nghiệp thông thường, chất thải cá biệt, chất thải nguy hại đốt được bằng công nghệ phát điện hiện đại, đáp ứng nhu cầu xử lý rác của Thành phố.

Bên cạnh đó sử dụng vật liệu tái chế, xỉ của Nhà máy xử lý rác bằng công nghệ đốt phát điện để làm vật liệu xây dựng, sản xuất gạch block không nung, cấu kiện bê tông. Tái chế dầu nhớt phế thải, cao su phế thải thành dầu đốt PO, RO…

Liên quan đến các dự án xử lý rác thải trên địa bàn TP.Đà Nẵng, ông Võ Nguyên Chương, Phó Giám đốc Sở TN&MT Đà Nẵng cho biết, Thành phố đang đẩy nhanh công tác chuẩn bị đầu tư nhà máy xử lý rác thải 650 tấn và 1.000 tấn tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn Khánh Sơn.

Theo đó, dự án nhà máy xử lý rác sinh hoạt quy mô 1.000 tấn/ngày tại Khu liên hợp xử lý chất thải rắn theo hình thức PPP, hiện Sở Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu UBND thành phố tổ chức thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi của Dự án. Hội đồng thẩm định đã đề nghị Nhà đầu tư chỉnh sửa, bổ sung các nội dung thẩm định của thành viên Hội đồng thẩm định.

Dự án Nhà máy đốt rác phát điện công suất 650 tấn/ngày đã được Sở Kế hoạch và Đầu tư TP. Đà Nẵng cấp Giấy chứng nhận đầu tư thay đổi lần thứ 3 cho nhà đầu tư Công ty Cổ phần Môi trường Việt Nam. Dự kiến quý III/2026 sẽ hoàn thành đưa vào sử dụng. Hiện doanh nghiệp đang triển khai các thủ tục theo quy định.

Rà soát các trạm dừng nghỉ đang xây dựng, khai thác trên cao tốc Bắc - Nam
Bộ GTVT sẽ tổ chức đoàn kiểm tra, phối hợp với các cơ quan chức năng của địa phương thực hiện rà soát các trạm dừng nghỉ đang đầu tư...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư