Thứ Ba, Ngày 25 tháng 11 năm 2025,
Tin mới y tế ngày 25/11: WHO cảnh báo cần hành động liên ngành trước sự gia tăng COPD
D.Ngân - 25/11/2025 09:22
 
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) từ lâu được xem là “căn bệnh thầm lặng nhưng gây tử vong hàng đầu”, đồng thời tạo ra gánh nặng chi phí ngày càng tăng đối với hệ thống y tế và toàn xã hội.

WHO cảnh báo cần hành động liên ngành trước sự gia tăng COPD

Trong những ngày cuối tháng 11, nhiều bệnh viện trên cả nước đã tổ chức hoạt động hưởng ứng Ngày bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính năm 2025 với chủ đề “Khó thở, hãy nghĩ đến COPD”.

Thông điệp này như một lời nhắc rằng căn bệnh nguy hiểm này vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Trong khi đó, chẩn đoán sớm và điều trị phù hợp có thể cải thiện rõ rệt triệu chứng, chức năng phổi và chất lượng sống của người bệnh.

Ảnh minh họa.

Thực tế, hiện vẫn có từ 65% đến 80% người mắc COPD chưa được chẩn đoán, khiến họ nhập viện muộn và phải đối mặt với nhiều chi phí điều trị hơn. Vì vậy, bất cứ ai bị khó thở, ho mạn tính, có đờm; từng mắc các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới tái phát; hoặc có tiền sử tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ như thuốc lá, khói bụi nghề nghiệp… đều cần được cân nhắc chẩn đoán COPD.

Báo cáo “Tình trạng toàn cầu của COPD - Thúc đẩy thay đổi để giải quyết khủng hoảng sức khỏe phổi” cho thấy rất khó để ước tính chính xác số người mắc bệnh, bởi nhiều trường hợp không được phát hiện. Dữ liệu gần đây cho biết toàn cầu có khoảng 213 triệu người đang sống với COPD, và con số này có thể lên tới 391 triệu.

Dù là nguyên nhân tử vong đứng thứ ba trên thế giới, COPD lại thường bị “bỏ quên” trong các ưu tiên y tế. Trung bình mỗi giờ có 425 người tử vong vì căn bệnh này, trong đó 90% là ở nhóm dưới 70 tuổi tại các quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Từ năm 2020 đến 2050, COPD được dự báo tiêu tốn của nền kinh tế toàn cầu khoảng 4.300 tỷ USD.

COPD là nguyên nhân thứ bảy gây tình trạng sức khỏe kém trên thế giới, khởi nguồn từ sự thu hẹp tiến triển của đường thở khiến người bệnh ngày càng khó thở. Các triệu chứng nặng lên theo thời gian và đặc biệt dễ bùng phát vào mùa đông, gây quá tải hệ thống y tế. Khoảng 40% người mắc COPD phải giảm hoặc từ bỏ công việc do bệnh.

Tại Việt Nam, các nghiên cứu cho thấy có 7%-10% dân số mắc COPD. Công tác phòng chống đã được đưa vào Chiến lược quốc gia phòng chống bệnh không lây nhiễm từ năm 2015.

Đến năm 2024, cả nước đã có hơn 300 phòng quản lý ngoại trú COPD và hen phế quản, khoảng 3.000 trạm y tế triển khai hoạt động dự phòng và phát hiện sớm bệnh; gần 700.000 người bệnh được quản lý tại các cơ sở y tế. Tuy vậy, tỷ lệ hút thuốc lá cao, ô nhiễm môi trường, khó khăn trong tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe và quá trình già hóa nhanh khiến số ca bệnh dự kiến tiếp tục gia tăng.

Phần lớn gánh nặng COPD có thể được giảm thiểu thông qua dự phòng và quản lý bệnh tốt hơn. Các chuyên gia kêu gọi chính phủ tăng cường dịch vụ cai thuốc lá bởi đây là yếu tố nguy cơ lớn nhất của COPD, đồng thời đầu tư cải thiện môi trường sống, quy hoạch đô thị khoa học, thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch.

Song song đó là đẩy mạnh tiêm chủng phòng các bệnh nhiễm trùng hô hấp, nâng cao nhận thức cộng đồng về các dấu hiệu sớm như khó thở, khuyến khích khám sàng lọc và chăm sóc y tế kịp thời. Việc tích hợp sàng lọc COPD vào các chương trình kiểm tra sức khoẻ định kỳ, đặc biệt ở nhóm nguy cơ cao, cũng được khuyến nghị.

Để đối phó hiệu quả với COPD, nhiều quốc gia cần đưa bệnh vào nhóm ưu tiên y tế công cộng; xây dựng chiến lược quốc gia cho các bệnh hô hấp với mục tiêu cụ thể về phòng ngừa, phát hiện sớm và điều trị; đồng thời phát triển cơ sở dữ liệu quốc gia giúp theo dõi diễn tiến, tỷ lệ nhập viện, tái nhập viện và kết quả điều trị. Việc đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, sẽ góp phần tối ưu hóa chẩn đoán và chăm sóc bệnh nhân.

Theo PGS-TS.Vũ Văn Giáp, Phó giám đốc Bệnh viện Bạch Mai, việc đẩy mạnh sàng lọc, phát hiện sớm, đặc biệt ở nhóm nguy cơ cao; chuẩn hóa quy trình chẩn đoán tại tuyến cơ sở để bảo đảm mỗi đơn vị có thể đo và diễn giải chức năng hô hấp.

Đồng thời cần nâng cao vai trò tư vấn cai thuốc lá, mở rộng mô hình quản lý bệnh mạn tính tại cộng đồng, tăng cường hợp tác liên ngành giữa y tế, môi trường, truyền thông. "Phòng chống COPD không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tế mà là trách nhiệm của toàn hệ thống và toàn xã hội", lãnh đạo Bệnh viện Bạch Mai nêu.

Bé trai 6 tháng tuổi suy hô hấp do nhiễm virus hợp bào hô hấp

Bé Anh Tú, 6 tháng tuổi, được đưa đến viện trong tình trạng ho nhiều, sốt cao liên tục 39°C, thở khò khè và rút lõm lồng ngực. Đó là những dấu hiệu điển hình của suy hô hấp sau nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV). Thời điểm nhập viện, bé quấy khóc, bỏ bú, phổi xuất hiện nhiều ran rít và ran ẩm hai bên. Dù đã được thở khí dung, vệ sinh mũi họng và vỗ rung long đờm, tình trạng của bé vẫn tiến triển xấu chỉ sau một ngày.

Về đêm, khó thở tăng dần, nhịp thở của bé lên tới 45-50 lần/phút, độ bão hòa oxy máu giảm còn 92%, phổi thông khí kém, lồng ngực rút lõm rõ rệt, tất cả đều báo hiệu suy hô hấp đang diễn tiến nhanh.

Bé được chỉ định thở oxy qua mask 5 lít/phút và áp dụng các biện pháp hỗ trợ hô hấp chuyên sâu. Mọi chỉ số sinh tồn như nhịp tim, SpO₂, nhiệt độ, mức độ khó thở, chế độ ăn và lượng nước tiểu được theo dõi liên tục, nhằm đảm bảo các chức năng sống ổn định.

Thạc sỹ, bác sỹ Thân Thị Thùy Linh, chuyên khoa nhi, người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân cho biết, khi xâm nhập đường hô hấp, RSV tấn công trực tiếp vào tế bào biểu mô tiểu phế quản, gây phù nề và tăng tiết dịch.

Ở trẻ nhỏ, đường thở vốn hẹp, niêm mạc dễ phù, lại chưa biết khạc đờm, vì vậy chỉ cần một lượng dịch nhỏ cũng đủ khiến đường thở bị tắc nghẽn, dẫn đến khò khè, khó thở và có thể nhanh chóng gây suy hô hấp.

Sau hai ngày điều trị tích cực, tình trạng hô hấp của bé Tú bắt đầu cải thiện. Bé giảm ho, cắt sốt, không còn thở nhanh hay rút lõm ngực, phổi thông khí tốt hơn và tinh thần cũng thoải mái, không còn quấy khóc. Bé được tăng cường dinh dưỡng để phục hồi thể trạng, và sau bốn ngày, sức khỏe ổn định, đủ điều kiện xuất viện.

Theo bác sỹ Linh, RSV là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm trùng hô hấp dưới ở trẻ nhỏ, đặc biệt ở trẻ dưới hai tuổi. Virus lan truyền qua giọt bắn và tiếp xúc với bề mặt có dính dịch tiết hô hấp. RSV có thể tồn tại nhiều giờ trên đồ vật và đào thải kéo dài hơn ở những trẻ suy giảm miễn dịch.

Giai đoạn đầu thường dễ bị nhầm với cảm lạnh thông thường, nhưng từ ngày thứ ba đến thứ bảy, trẻ có thể xuất hiện khó thở, mệt mỏi, quấy khóc nhiều do đường thở bị phù nề và tắc nghẽn đờm. Trẻ dưới 12 tháng, trẻ sinh non, có cơ địa dị ứng hoặc bệnh tim phổi bẩm sinh là nhóm nguy cơ cao diễn tiến nặng.

Khi bệnh trở nặng, trẻ thở nhanh, phập phồng cánh mũi, lồng ngực rút lõm theo từng nhịp thở, đôi khi kèm tiếng rít hoặc khò khè do đường thở bị thu hẹp. Một số trẻ có cơn ngưng thở, ho dữ dội, tím tái đầu chi vì thiếu oxy. Toàn trạng thay đổi: bỏ bú, ngủ li bì, kích thích hoặc mệt lả.

Trẻ nhiễm RSV cũng dễ bội nhiễm phế cầu, HI, tụ cầu, cúm, Covid-19, sởi… khiến bệnh nặng lên nhanh, làm tăng nguy cơ viêm phổi, viêm tiểu phế quản, suy hô hấp nặng, xẹp phổi, tràn khí màng phổi, rối loạn nhịp thở, mất nước và thậm chí tử vong. Sau khỏi bệnh, một số trẻ có thể khò khè kéo dài nhiều tháng.

RSV có thể lưu hành quanh năm, đặc biệt trong thời điểm giao mùa và thời tiết lạnh, khiến nguy cơ mắc bệnh luôn hiện hữu. Để phòng ngừa, phụ huynh cần hạn chế cho trẻ đến nơi đông người, tránh tiếp xúc với người đang ho sốt, rửa tay thường xuyên trước khi chăm trẻ, giữ vệ sinh không gian sống và các bề mặt tiếp xúc.

Tránh hôn vào mặt, tay trẻ; cho trẻ tiêm chủng đầy đủ; với nhóm nguy cơ cao, có thể được chỉ định tiêm kháng thể đơn dòng phòng RSV. Khi trẻ có dấu hiệu ho nhiều, khò khè, thở nhanh, bỏ bú, tím tái hoặc li bì, cần đưa trẻ đến bệnh viện kịp thời để tránh nguy cơ diễn tiến nặng.

Vi phẫu hồi sinh cánh tay liệt sau tai nạn giao thông

Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương vừa thực hiện thành công hai ca vi phẫu chuyển thần kinh cho hai nam thanh niên bị liệt đám rối thần kinh cánh tay, mở ra cơ hội phục hồi vận động cho những trường hợp chấn thương nghiêm trọng.

Cả hai bệnh nhân đều bị nhổ rễ thần kinh khỏi tủy sống, dẫn đến liệt hoàn toàn hoặc một phần tay. Bệnh nhân 1, 21 tuổi, nhập viện sau tai nạn hơn 2 tháng, tay phải liệt từ vai đến ngón tay, tổn thương toàn bộ đám rối C5-T1, mất hết vận động và cảm giác.

Bệnh nhân 2, 29 tuổi, nhập viện sau tai nạn 6 tháng, trước đó đã được phẫu thuật cứu cánh tay bị gãy xương và dập động mạch. Dù nắm được bàn tay, anh không thể gấp khuỷu hay dạng vai do liệt thân trên C5-C7.

Theo TS.Dương Mạnh Chiến, khi rễ thần kinh bị giật đứt sát tủy, chúng không thể tự phục hồi, và giải pháp duy nhất là vi phẫu chuyển thần kinh.

Phương pháp này lấy một phần dây thần kinh lành để nối sang dây thần kinh bị liệt dưới kính hiển vi. Ê-kíp phẫu thuật phải dùng kích thích điện để xác định chính xác “bó cho - bó nhận”, mũi khâu sử dụng chỉ mảnh hơn sợi tóc, chỉ một sai lệch nhỏ cũng có thể dẫn đến thất bại. Các ca mổ kéo dài từ 5 đến 7 giờ.

Hiện tại, cả hai bệnh nhân đều ổn định sau mổ. Dây thần kinh sẽ mọc lại với tốc độ 1-3 mm/ngày, và sau 3-6 tháng tập phục hồi chức năng, bệnh nhân có thể bắt đầu vận động chủ động trở lại.

Tổn thương đám rối thần kinh cánh tay thường gặp ở người trẻ sau tai nạn giao thông. TS.BS Chiến khuyến cáo, nếu sau tai nạn thấy tay yếu, tê kéo dài, không dạng được vai hoặc không gấp được khuỷu, bệnh nhân cần được phẫu thuật trong 12 tháng đầu. Nếu để quá lâu, cơ bị teo sẽ khiến phẫu thuật không còn hiệu quả.

Thành công của hai ca vi phẫu tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đánh dấu bước tiến quan trọng trong phục hồi chức năng thần kinh, giúp những bệnh nhân liệt cánh tay lấy lại cơ hội vận động và chất lượng cuộc sống.

Robot loại bỏ u tuyến ức ở vị trí khó tiếp cận

Bà Hoa, 56 tuổi, đến viện sau một tai nạn chấn thương thành ngực. Qua chụp CT kiểm tra, các bác sỹ phát hiện khối u tuyến ức kích thước 3,5 cm nằm ngay trước tim, trước động mạch chủ và động mạch phổi. Khối u chưa lan tới hạch bạch huyết hay mô xung quanh, khả năng lành tính cao.

Theo TS.Nguyễn Anh Dũng, Trưởng khoa Ngoại Lồng ngực - Mạch máu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM, khối u nằm ở vị trí khó tiếp cận, ngay cạnh các mạch máu lớn, nên nếu để lâu sẽ phát triển, xâm lấn các tổ chức xung quanh và gây khó khăn cho phẫu thuật sau này. Tuy nhiên, bà Hoa chưa biểu hiện triệu chứng nào, đây là một phát hiện tình cờ.

Tuyến ức là một cơ quan quan trọng trong hệ miễn dịch, nằm trong lồng ngực, sau xương ức, phía trước tim và các mạch máu lớn. U tuyến ức có thể là lành tính hoặc ác tính, hình thành từ các tế bào biểu mô trên bề mặt tuyến. Trong trường hợp của bà Hoa, khối u có cấu trúc hỗn hợp, gồm cả nang nước và mô đặc, nằm gọn trong tuyến ức, chưa xâm lấn các mô lân cận.

Với vị trí khó tiếp cận của khối u, các phương pháp mổ mở hay nội soi thông thường đều tiềm ẩn nguy cơ cao làm tổn thương tim và mạch máu. Để đảm bảo an toàn và hiệu quả, các bác sỹ đã lựa chọn phẫu thuật có sự hỗ trợ của robot Da Vinci Xi.

Ê kíp phẫu thuật mở bốn lỗ nhỏ từ 1-1,5 cm trên ngực - bụng để đưa các cánh tay robot vào. Hệ thống robot với màn hình cảm ứng trực quan và bộ lọc rung, kiểm soát chuyển động giúp bác sỹ thao tác chính xác từng milimet, loại bỏ hoàn toàn rung tay tự nhiên. Nhờ đó, các thao tác bóc tách khối u trong không gian hẹp trở nên dễ dàng hơn, hạn chế tối đa tổn thương mô lành và các cơ quan lân cận.

Sau hơn một giờ phẫu thuật, ê kíp đã bóc tách trọn vẹn khối u. Bà Hoa đau ít, ít chảy máu, sẹo nhỏ, và xuất viện chỉ sau ba ngày.

Theo bác sỹ Dũng, đối với các khối u tuyến ức lớn hơn 5 cm hoặc nằm sát mạch máu lớn, phẫu thuật mở vẫn được ưu tiên để đảm bảo lấy hết u mà không gây nguy cơ cho các cơ quan xung quanh.

Tuy nhiên, đối với các khối u vừa và nhỏ như của bà Hoa, phẫu thuật robot mang lại nhiều lợi ích như giảm đau, hồi phục nhanh, nguy cơ biến chứng thấp, thời gian nằm viện giảm 20-30% so với mổ nội soi truyền thống.

Hầu hết bệnh nhân có u tuyến ức giai đoạn đầu không biểu hiện triệu chứng. Triệu chứng chỉ xuất hiện khi khối u chèn ép các cơ quan xung quanh như khí quản, thực quản hay dây thần kinh quặt ngược.

Phẫu thuật vẫn là phương pháp loại bỏ u hiệu quả, kết hợp với hóa trị, xạ trị hay liệu pháp miễn dịch trong trường hợp u ác tính. Với các khối u lành tính, bệnh nhân chỉ cần tái khám định kỳ để phát hiện sớm các bất thường nếu có.

Ca phẫu thuật của bà Hoa là một ví dụ điển hình cho việc ứng dụng robot trong phẫu thuật tuyến ức, mở ra khả năng tiếp cận những khối u “khó nhằn” mà các phương pháp truyền thống gặp nhiều rủi ro, giúp bệnh nhân hồi phục nhanh và an toàn.

Nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính vì thuốc lá
Bệnh nhân nam, 70 tuổi ở Hà Nội nhập khoa Nội Tổng hợp, Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương trong tình trạng ho khan, khó thở tăng lên, mệt...
Bình luận bài viết này
Xem thêm trên Báo Đầu Tư